Đề xuất quy định về hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

Chủ nhật, 21/4/2024, 08:01 (GMT+7)
logo Để bảo đảm Luật Tài nguyên nước năm 2023 được triển khai thi hành ngay sau khi có hiệu lực, việc xây dựng, ban hành Nghị định quy định chi tiết việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước là hết sức cần thiết.

Đề xuất quy định về hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước

Luật TNN năm 2012 đã quy định các nội dung liên quan về hành nghề khoan NDĐ, kê khai, đăng ký, cấp phép, và tiền cấp quyền khai thác TNN. Để hướng dẫn thi hành Luật, Bộ TN&MT đã chủ trì xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 201/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật TNN (gọi tắt là Nghị định số 201) và được sửa đổi thay thế tại Nghị định số 02/2023/NĐ-CP, trong đó, có hướng dẫn chi tiết các quy định về về lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư và công khai thông tin trong khai thác, sử dụng TNN; đăng ký, cấp giấy phép khai thác, sử dụng TNN; thăm dò, khai thác NDĐ. Ngoài ra, Bộ đã chủ trì xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác TNN và được sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 41/2021/NĐ-CP. Bộ cũng đã chủ trì xây dựng và ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BTNMT về quy định việc hành nghề khoan NDĐ và được sửa đổi bổ sung một số điều tại Thông tư số 11/2022/TT-BTNMT, Thông tư số 27/2014/ TT-BTNMT quy định việc đăng ký khai thác NDĐ, mẫu hồ sơ cấp, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại giấy phép TNN (được thay thế tại Nghị định số 02/2023/NĐ-CP).

Sau nhiều năm tổ chức triển khai thực hiện Luật TNN, các Nghị định và Thông tư nêu trên đã đạt được một số kết quả trong công tác quản lý TNN, đặc biệt là đã nâng cao ý thức trách nhiệm trong khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN của các tổ chức, cá nhân; công tác quản lý nhà nước về TNN tiếp tục được tăng cường hiệu lực, hiệu quả, thể hiện trên các mặt chủ yếu như sau:

Công tác cấp phép về TNN: Công tác cấp phép được tăng cường, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ trong khai thác, sử dụng TNN. Hiện nay, đã có khoảng hơn 25.000 công trình khai thác, sử dụng nước đã được quản lý từ trung ương đến địa phương thông qua việc cấp phép. Trong đó, Bộ TN&MT đã cấp 1.787 giấy phép TNN cho các tổ chức và cá nhân (113 giấy phép hành nghề khoan thăm dò khai thác NDĐ; 843 giấy phép khai thác sử dụng nước mặt, nước biển; 149 giấy phép thăm dò NDĐ; 277 giấy phép khai thác sử dụng NDĐ và 405 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước). Qua công tác thẩm định các dịch vụ công trong lĩnh vực TNN, tính từ năm 2012, Bộ TN&MT đã thu gần 16 tỷ đồng nộp về ngân sách nhà nước. 

Ở địa phương, theo số liệu báo cáo tại 54 tỉnh, thành phố đã cấp 23.794 giấy phép TNN cho các tổ chức và cá nhân (577 giấy phép hành nghề khoan thăm dò khai thác NDĐ; 1.890 giấy phép khai thác sử dụng nước mặt, nước biển; 1.968 giấy phép thăm dò NDĐ; 9.439 giấy phép khai thác sử dụng NDĐ và 9.920 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước).

Tài chính về TNN: Chính phủ đã ban hành quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác TNN. Quá trình thực hiện cho thấy, quy định đã đi vào cuộc sống, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và làm thay đổi nhận thức đối với hoạt động khai thác, sử dụng TNN theo hướng sử dụng tiết kiệm hơn. Tính đến nay, Bộ TN&MT đã phê duyệt được 995 quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác TNN với tổng số tiền gần 12.860 tỷ đồng; trong đó, số tiền cấp quyền khai thác TNN năm 2023 là 1.351 tỷ đồng. Theo số liệu các Quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác TNN của các tỉnh, thành phố gửi về Trung ương theo dõi. Tính đến ngày 30/11/2023, các tỉnh đã phê duyệt được tổng số tiền trên 625 tỷ đồng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai thực thi bộc lộ nhiều bất cập do chưa có quy định để tổ chức thực hiện và do còn tồn tại hạn chế trong việc thực thi nhất là ở các địa phương nên đã nhiều nội dung mới đã được sửa đổi bổ sung trong Luật TNN số 28/2023/QH15 và cần có Nghị định hướng dẫn để bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách không còn phù hợp với thực tiễn để tháo gỡ điểm nghẽn và giải quyết những vấn đề bất cập, bảo đảm tổng thể, toàn diện và sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm phù hợp với thực tế, nâng cao hơn nữa hiệu quả hiệu lực, tháo gỡ khó khăn cho các bộ, ngành, địa phương và nhất là các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định, cụ thể:

Đơn giản hoá thủ tục hành chính (kê khai, đăng ký, cấp phép), giảm các yêu cầu về biểu mẫu báo cáo và thời gian thẩm định hồ sơ cấp phép

Ngay từ Luật TNN năm 2012 tại Điều 44 đã quy định các trường hợp phải cấp giấy phép khai thác, sử dụng TNN, trong đó, bao gồm cả các công trình thủy lợi khai thác nước cấp cho mục đích sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, đa số công trình thủy lợi thuộc diện phải cấp phép (gồm 6.695 công trình hồ chứa, đập dâng, hàng chục nghìn đập dâng, cống, trạm bơm và loại hình công trình khai thác khác) đã vận hành trước ngày Luật TNN năm 2012 có hiệu lực thi hành và hồ sơ tài liệu thiết kế của nhiều công trình bị thất lạc và không đầy đủ theo quy định. Do đó, không có tài liệu làm căn cứ để lập hồ sơ đề nghị cấp giấy phép, dẫn tới tình trạng phần lớn các công trình thủy lợi này chưa được quản lý và cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước theo quy định. 

Để tạo điều kiện đơn giản hóa, giảm tải thủ tục hành chính cho đơn vị quản lý vận hành các công trình thủy lợi nêu trên thực thi quy định pháp luật về TNN về khai thác sử dụng nguồn nước, Nghị định số 02/2023/NĐ- CP ngoại trừ các trường hợp không phải kê khai, đăng lý, cấp phép, đã quy định các trường hợp (trong đó có công trình thủy lợi) thuộc hình thức đăng ký khai thác, sử dụng nước mà trước đó các đối tượng này thuộc trường hợp phải có giấy phép, cụ thể, gồm: Hồ chứa, đập dâng và các công trình khai thác nước cho mục đích nông nghiệp, khai thác nước biển phục vụ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nuôi trồng thủy sản trên đất liền,... Theo đó, trong dự thảo Nghị định này tiếp tục kế thừa các quy định cụ thể các trường hợp phải đăng ký gồm: Khai thác, sử dụng nước mặt cho mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản với lưu lượng khai thác từ 0,1 m3/s đến 0,5 m3/s; Hồ chứa, đập dâng thủy lợi có dung tích toàn bộ từ 0,01 triệu m3 đến 0,2 triệu m3. Theo đó, có khoảng hơn 2.000 hồ chứa thủy lợi trước đó thuộc trường hợp phải xin phép thì nay chỉ thực hiện thủ tục đăng ký khai thác nước mặt.

Ngoài ra, qua thực tế triển khai còn nhiều trường hợp cần phải được bổ sung để quản lý theo hình thức đơn giản hóa như kê khai (khai thác sử dụng NDĐ phục vụ sinh hoạt trong hộ gia đình); các trường hợp đăng ký (như các công trình khai thác NDĐ phục vụ một số mục đích có quy mô nhỏ; công trình đập ngăn sông, suối, kênh, mương, rạch chỉ có mục đích ngăn mặn, tạo nguồn, chống ngập, tạo cảnh quan; các trường hợp sử dụng mặt nước và đào hồ, ao, sông, suối, kênh, mương, rạch,…).

Việc bổ sung quy định kê khai, đăng ký đối với các trường hợp nêu trên, sẽ tạo điều kiện thuận lợi rất lớn các hộ gia đình (khoảng 13 triệu hộ dân), tổ chức, cá nhân (đặc biệt là các công trình thủy lợi) trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, thay vì phải lập hồ sơ đề nghị cấp phép theo quy định của Nghị định này chỉ thực hiện thủ tục kê khai, đăng ký, việc kê khai hoặc đăng ký sẽ không làm mất nhiều thời gian, kinh phí của hộ gia đình, tổ chức, cá nhân khi thực hiện. Riêng đối với thủ tục kê khai theo quy định của nghị này các hộ gia đình chỉ việc thực hiện kê khai trên ứng dụng điện tử nên rất thuận tiện trong việc kê khai.

Ngoài ra, việc kê khai hoặc đăng ký khai thác sử dụng nước không làm phát sinh nguồn lực, tài chính cho cơ quan thực thi mà thay vào đó là giảm tải khối lượng và mức độ phức tạp của công việc, giảm thiểu nguồn lực cho các cơ quan thực thi công việc trước đó, vì trước đó có nhiều công trình đều thuộc diện phải cấp phép và thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh (qua Sở TN&MT tổ thức thẩm định) thì nay vẫn được giao thẩm quyền cho Sở TN&MT xác nhận việc đăng ký để thuận tiện trong công tác quản lý và phù hợp với chủ trương của Chính phủ trong đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền cho địa phương đặc biệt là Sở TN&MT. 

Về tiền cấp quyền khai thác TNN: Để triển khai hiệu quả các quy định về việc thu tiền cấp quyền khai thác TNN, vừa bảo đảm khuyến khích tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ được nguồn nước, vừa bảo đảm được an sinh xã hội và bổ sung nguồn lực cho một số hoạt động bảo vệ nguồn nước, ngày 17/7/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác TNN và được sửa đổi bổ sung một số điều tại Nghị định số 41/2021/NĐ-CP.

Sau bảy năm triển khai thực hiện quy định về tiền cấp quyền khai thác TNN, công tác quản lý nhà nước về TNN tiếp tục được tăng cường hiệu lực, hiệu quả; đã nâng cao ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong khai thác, sử dụng TNN tiết kiệm, hiệu quả. Theo số liệu thống kê của Bộ TN&MT thì tính đến ngày 30/11/2023, Bộ TN&MT đã phê duyệt được 681 quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác TNN với tổng số tiền gần 10.200 tỷ đồng; theo số liệu báo cáo của các tỉnh, thành phố tính đến ngày 30/11/2023, các tỉnh đã phê duyệt được tổng số tiền trên 400 tỷ đồng. 

Tuy nhiên, quá trình thực thi đã phát sinh những vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và cần quy định cụ thể đảm bảo trong quá trình thực thi như: Căn cứ tính tiền cấp quyền khai thác TNN; thời điểm áp dụng giá tính tiền cấp quyền khai thác TNN; các trường hợp điều chỉnh tiền cấp quyền khai thác TNN; quy định về thời điểm áp dụng giá tính tiền đối với trường hợp truy thu tiền; trình tự, thủ tục thực hiện truy thu, hoàn trả tiền cấp quyền khai thác TNN,... đặc biệt là bổ sung một số trường hợp thu tiền cấp quyền khai thác TNN mà trước đó Luật TNN năm 2012 chưa quy định như sinh hoạt, nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, thuỷ điện tích năng, đồng thời quy định sản lượng tính tiền cấp quyền đối với các trường hợp trên; quy định cụ thể một số trường hợp được miễn tiền cấp quyền khai thác nước (trong đó, có khai thác nước để cấp cho sinh hoạt của người dân khu vực biên giới, hải đảo, địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn, địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn); quy định về giảm tiền cấp quyền khai thác TNN (cắt, giảm lượng nước khai thác hoặc tạm dừng có thời hạn hiệu lực của giấy phép; khai thác, sử dụng tuần hoàn, tái sử dụng nước; khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp trong thời gian xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn,...).

Dịch vụ về TNN: Luật TNN năm 2012 không quy định về dịch vụ TNN, tuy nhiên, Luật TNN năm 2023 đã bổ sung quy định mới về dịch vụ về TNN, theo đó, Nghị định này đã quy định cụ thể về điều kiện năng lực của tổ chức được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động cung cấp dịch vụ về TNN; điều kiện đối với tổ chức cung cấp dịch vụ cung cấp dịch vụ hỗ trợ ra quyết định điều hòa, phân phối TNN; dịch vụ hỗ trợ ra quyết định vận hành hồ chứa, liên hồ chứa cũng như trách nhiệm của các tổ chức nêu trên đảm bảo trong quá trình thực thi.

PHƯƠNG CHI
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 4 năm 2024