Doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản gặp khó vì bất cập chính sách

Thứ sáu, 22/9/2023, 15:35 (GMT+7)
logo Mặc dù doanh nghiệp được cấp phép khai thác mỏ, nhưng chưa giải phóng được mặt bằng, chưa khai thác, … nhưng vẫn phải nộp tiền cấp quyền khai thác; hoặc phải đấu giá lại chính mỏ mình được cấp phép để khai thác sâu hơn,… là những bất cập về chính sách khiến doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản gặp nhiều khó khăn.

Theo Hiệp hội đá hoa trắng Yên Bái, thực hiện pháp luật về khoáng sản, các doanh nghiệp khai thác đá đã triển khai việc khai thác theo giấy phép được cấp và chấp hành khá đầy đủ quy định của pháp luật theo hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, quá trình thực thi pháp luật đã phát sinh những bất cập, vướng mắc gây khó khăn thậm chí tạo thành rào cản cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Với mong muốn hoàn thiện cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua dự án Luật Địa chất và Khoáng sản nhằm tạo hành lang pháp lý, môi trường đầu tư thuận lợi để thúc đẩy phát triển công nghiệp khai khoáng bền vững và lớn mạnh trong giai đoạn mới, Hiệp hội đá hoa trắng Yên Bái và Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Nghệ An đã kiến nghị lên Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường các Bộ, ngành và địa phương một số vấn đề còn vướng mắc trong quá trình hoạt động khai thác khoáng sản.

Bất cập từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản…

Theo đó, việc khai thác, chế biến khoáng sản nói chung và đá hoa trắng nói riêng cần vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu hơn so với hoạt động sản xuất, kinh doanh khác. Theo đó, hàng năm các doanh nghiệp phải nộp tiền cấp quyền khai thác đối với phần trữ lượng được cấp phép ngay khi giấy phép có hiệu lực. Tuy nhiên, thực tế cho thấy khi giấy phép có hiệu lực doanh nghiệp không thể khai thác ngay hoặc đưa mỏ vào hoạt động, bởi phải thực hiện thủ tục đền bù, giải phóng mặt bằng để được giao đất, cho thuê đất (có những dự án mất cả chục năm).

Theo ông Nguyễn Trung Hải, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Nghệ An, kể cả khi không tổ chức khai thác được hoặc khai thác không đạt công suất cấp phép doanh nghiệp vẫn phải nộp khoản tiền này. Đây là khoản thu không phải thuế, phí. Việc này đã tạo áp lực, khó khăn tài chính đáng kể cho doanh nghiệp khi không có doanh thu nhưng vẫn phải nộp khoản tiền này vào ngân sách.

Mặt khác, bất cập rõ rệt nhất đối với đá khối liên quan đến tỷ lệ thu hồi thực tế từ kết quả khai thác so với tỷ lệ thu hồi được phê duyệt trữ lượng từ báo cáo kết quả thăm dò khoáng sản, cụ thể: Tỷ lệ thu hồi đá khối (có khối tích >0,4 m3) khai thác được rất thấp (trung bình đạt 3-5%, có những mỏ không có sản phẩm thương mại) trong khi trữ lượng đá khối làm đá ốp lát được phê duyệt thường được xác định đạt 20-30% trên tổng khối của mỏ (gồm đá hoa trắng làm bột và đá xây dựng). Điều này dẫn đến khối lượng đá tính tiền cấp quyền khai thác phải nộp cao gấp 5 đến 15 lần so với khối lượng đá khối thực tế khai thác được.

“Như vậy, doanh nghiệp phải nộp một khoản tiền lớn (gấp từ 5 đến 15 lần) để được cấp quyền cho loại đá mà thưc tế không có được. Đây là một gánh nặng tài chính khổng lồ cần phải được đánh giá rất nghiêm túc. Vì vậy, đề nghị Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia cần xem xét thực trạng này trong khai thác đá hoa trắng tại Việt Nam. Một vấn đề then chốt liên quan đến trữ lượng khoáng sản để tính tiền cấp quyền còn nhiều bất cập, cụ thể: Kết quả phê duyệt trữ lượng khoáng sản là con số tuyệt đối, cấp phép và tính tiền cấp quyền khai thác trên con số tuyệt đối này”, ông Hải nhấn mạnh!.

Về mức độ nghiên cứu địa chất đối với đá hoa trắng trước đây được áp dụng tiêu chuẩn đánh giá trữ lượng theo Quyết định số: 06/2006/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường, sau đó được thực hiện theo điều chỉnh của Thông tư số: 60/2017/TT-BTNMT, đá hoa trắng chủ yếu được nghiên cứu đánh giá ở cấp trữ lượng 122. Mức độ tin cậy của tài liệu thăm dò đến 50%, kết quả khai thác thực tế không đúng với con số tuyệt đối được cấp phép và tính tiền cấp quyền.

Theo đại diện Hiệp hội đá hoa trắng Yên Bái, trong các văn bản này cũng chỉ dùng cụm từ “mức độ tin cậy” cho tài liệu địa chất. Theo báo cáo thăm dò được phê duyệt biểu đồ mô tả các thành phần khoáng sản theo báo cáo thăm dò trong mỏ đá hoa Nghệ An (tổng hợp giá trị trung bình tương đối của 30 mỏ); biểu đồ mô tả các thành phần khoáng sản thực tế có trong mỏ đá hoa Nghệ An (tổng hợp giá trị trung bình tương đối của 30 mỏ); theo báo cáo thăm dò đánh giá trữ lượng được phê duyệt, tỷ lệ thu hồi được đánh giá cao hơn so với thực tế sản xuất, do các chỉ tiêu kỹ thuật để đánh giá trữ lượng chỉ đánh giá độ nguyên khối, thực tế sản phẩm thương mại cần có thêm một số chỉ tiêu khác. Ví dụ: Độ kết tinh bề mặt, vết răn, vảy bề mặt chỉ sau khi xẻ mài bóng thì mới phát hiện được. Tại điều 10, Nghị định số 67/2019/NĐ-CP “Điều chỉnh, hoàn trả tiền cấp quyền khai thác khoáng sản” chỉ quy định điều chỉnh khi trữ lượng tăng, nếu trữ lượng giảm do biến động địa chất, hoặc tài liệu đánh giá không chính xác thì không được điều chỉnh.

“Như vậy, hệ lụy pháp lý xảy ra và trách nhiệm pháp lý xảy ra với cả cơ quan quản lý khoáng sản lẫn doanh nghiệp khai thác khoáng sản. Điều này sẽ đẩy doanh nghiệp vào trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 227 (Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên) của Bộ luật Hình sự. Khảo sát tại một số quốc gia trên thế giới và một số nước trong khu vực Châu Á có chính sách về công cụ kinh tế trong khai thác khoáng sản tương đồng với Việt Nam thì họ chỉ thu phí đền bù tài nguyên không có nước nào thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Trong khi thực tế tại Việt Nam hiện nay tồn tại cả 02 công cụ kinh tế này (tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên). Như vậy, khẳng định công cụ kinh tế này tại Việt Nam là thuế chồng thuế”, vị đại diện này cho hay!.

Doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản gặp khó vì bất cập chính sách

Đến bất cập về đấu giá quyền khai thác khoáng sản

Theo Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Nghệ An, đấu giá là chủ trương nhằm minh bạch trong hoạt động khoáng sản. Tuy nhiên, quyền khai thác khoáng sản để đưa ra đấu giá cần phải được xem xét, nhìn nhận lại vấn đề này để đảm bảo đúng với bản chất của loại tài sản đưa ra đấu giá.

Cụ thể: Thứ nhất, đấu giá quyền khai thác khoáng sản chủ yếu là đấu giá ở những khu vực chưa có kết quả thăm dò khoáng sản. Như vậy, thông tin, số liệu về trữ lượng cấp tài nguyên đưa ra đấu giá từ kết quả điều tra đánh giá có mức độ tin cậy rất thấp. Điều này, sẽ phát sinh những hệ lụy pháp lý như: Dữ liệu đưa ra đấu giá có tính chất rất đặc thù (tính theo chỉ số R trong công thức tính tiền cấp quyền khai thác). Sai số trữ lượng khi doanh nghiệp trúng đấu giá, tiến hành thăm dò mà không tìm ra trữ lượng theo như thông tin dự báo, thì trách nhiệm pháp lý thuộc về cơ quan/tổ chức nào?.  Trường hợp thứ nhất: Thăm dò và đánh giá trữ lượng, tổng khoáng sản có ích không đủ điều kiện thực hiện dự án, do không có hiệu quả kinh tế - Cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại cho doanh nghiệp khi đã bỏ chi phí đầu tư thăm dò và thực hiện các thủ tục hành chính để tiến hành thăm dò; Nếu không có trữ lượng, dự án không thể triển khai được thì số tiền đặt cọc đấu giá có được hoàn lại không?. Đây là rủi ro vô cùng lớn của doanh nghiệp. Trường hợp thứ 2: Khi thăm dò có trữ lượng lớn, thì đương nhiên doanh nghiệp phải nộp tiếp phần cấp quyền khai thác cho trữ lượng được đánh giá và phê duyệt sau khi đã trừ đi phần tiền đã đặt cọc khi tham gia đấu giá - Nhà nước vẫn quản lý theo dữ liệu đánh giá. Khi thăm dò có trữ lượng khoáng sản nhưng, không thể khai thác do không giải phóng mặt bằng để giao đất, cho thuê đất thì cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại cho doanh nghiệp khi đã bỏ chi phí đầu tư thăm dò và thực hiện các thủ tục hành chính để cấp giấy phép thăm dò, giấy phép khai thác khoáng sản (chi phí đã bỏ ra là rất lớn). Điều này xảy ra do hoạt động khoáng sản còn chịu sự điều chỉnh của các luật khác liên quan (Luật Đất đai, Luật Quy hoạch, Luật Lâm Nghiệp,…).

Thứ hai, chính sách đấu giá đẩy mọi rủi ro về pháp lý và rủi ro về tài chính cho doanh nghiệp, nên không thể thu hút được và không thúc đẩy mạnh mẽ cơ chế này.

Thứ ba, thực tế ở Việt Nam những năm qua cho thấy đấu giá quyền khai thác đối với một số loại khoáng sản, số mỏ được cấp phép và đưa vào khai thác không đáng kể. Vì vậy, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Nghệ An đề nghị chỉ xem xét, quy định đấu giá quyền khai thác đối với một số loại khoáng sản như vật liệu xây dựng thông thường là cát, sỏi lòng sông, vật liệu san lấp, … (loại khoáng sản có tính chất ít biến động về trữ lượng, điều kiện khai thác, chế biến, sử dụng và dễ tiêu thụ thuận lợi; không đòi hỏi cao về công nghệ khai thác cũng như chế biến).

Về giá tính thuế tài nguyên khoáng sản và phí bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản: Quy định hiện hành của pháp luật về thuế tài nguyên cũng như phí bảo vệ môi trường chưa làm rõ và đưa ra mức giá cho từng mỏ khoáng sản cụ thể căn cứ vào chất lượng (hàm lượng) và điều kiện địa chất, điều kiện khai thác, hạ tầng kỹ thuật của mỏ để xác định mức giá cho phù hợp với đặc điểm của từng mỏ là chưa phù hợp gây bất lợi cho các mỏ cho chất lượng thấp, điều kiện kỹ thuật khai thác khó khăn (chi phí đầu tư lớn). Như vậy, sẽ không thúc đầy Doanh nghiệp đầu tư công nghệ khai thác, chế biến để thu hồi tối đa khoáng sản có chất lượng thấp, nhất là đối với khối lượng đá dư thừa do không đạt quy cách như hiện nay.

Doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản gặp khó vì bất cập chính sách

Và một số kiến nghị

Từ những vấn đề bất cập trên, Hiệp hội đá hoa trắng Yên Bái và Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Nghệ An đưa ra một số kiến nghị về những vấn đề còn vướng mắc trong quá trình hoạt động khai thác khoáng sản.

Cụ thể, hai Hiệp hội đề nghị Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp xem xét đề xuất bỏ quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và gộp (lồng ghép) vào thuế tài nguyên để không tạo áp lực thuế chồng thuế như hiện này và phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh; xem xét đề xuất bỏ quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản hoặc chỉ đưa ra đấu giá quyền khai thác khoáng sản đối với loại hình khoáng sản có tính chất đơn giản như: Vật liệu xây dựng thông thường (cát, sỏi, đất san lấp); không đấu giá đối với khoáng sản kim loại, khoáng sản làm vật liệu xây dựng, khoáng sản ở thể lỏng, thể khí.

Về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu: Đề nghị xem xét những bất cập hiện nay trong quá trình khai thác đá hoa trắng để có những quy định cụ thể hơn, nhằm ưu tiên cho doanh nghiệp đã và đang đầu tư dự án chế biến khoáng sản (nhất là nhà máy chế biến hoạt động ổn định từ 3-5 năm).

Về việc thăm dò xuống sâu trong ranh giới khu vực đã cấp phép khai thác (phần dưới mức sâu được phép khai thác theo giấy phép đã cấp), khi giấy phép khai thác còn thời hạn khai thác từ 2-5 năm tùy loại khoáng sản. Nếu noanh nghiệp có nhu cầu thăm dò xuống sâu thì không quy định tổ chức đấu giá đối với khu vực này mà cấp phép trực tiếp cho chủ giấy phép đang khai thác để được tiếp tục khai thác xuống sâu. Với lý do: Hạ tầng kỹ thuật gồm các công trình phục vụ dự án đầu tư khai thác khoáng sản cũng như nhà máy chế biến (nếu có).

Như vậy, việc giao cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoạt động khoáng sản là không hợp lý, chồng chéo về diện tích khai thác, biện pháp an toàn trong khai thác cũng như giải pháp bảo vệ môi trường (Ngoại trừ trường hợp chủ đầu tư đang khai thác có văn bản trả lại),…

Về công suất khai thác: Đề nghị xem xét, áp dụng phương pháp tính công suất tối đa từ 03 đến 05 năm (kế hoạch 5 năm). Nghĩa là không được phép vượt tổng công suất khai thác của 03 năm hoặc 05 năm đối với năm khai thác khi nhu cầu thị trường tăng đột biến. Với lý do công suất khai thác phục thuộc lớn vào nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước ( do có khi nhiều năm không thể khai thác được bởi không có thị trường).

Ví dụ: Trong 02 năm Covid -19 doanh nghiệp không thể khai thác được hoặc trong thời gian dài 02 đến 03 năm doanh nghiệp không thể giải phóng được mặt bằng để đưa mỏ vào hoạt động. Theo đó, quy định như hiện nay vô tình đã “đẩy” doanh nghiệp vào lao lý khi khai thác vượt công suất mà bị quy kết là vi phạm quy định về trách nhiệm hình sự theo Điều 227 của Bộ luật Hình sự.

Nhất Nam