
Ảnh minh họa
Từ bất cập trong cơ chế, chính sách
Điều 5, Luật Khoáng sản năm 2010 quy định: Địa phương nơi có khoáng sản được khai thác được Nhà nước điều tiết khoản thu từ hoạt động khai thác khoáng sản để hỗ trợ phát triển KT-XH theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, Điều Luật này cũng quy định rõ các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản trên địa bàn có trách nhiệm: Hỗ trợ chi phí đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng hạ tầng kỹ thuật sử dụng trong khai thác khoáng sản và xây dựng công trình phúc lợi cho địa phương nơi có khoáng sản được khai thác theo quy định của pháp luật; kết hợp khai thác với xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ, phục hồi môi trường theo dự án đầu tư khai thác khoáng sản; nếu gây thiệt hại đến hạ tầng kỹ thuật, công trình, tài sản khác thì tùy theo mức độ thiệt hại phải có trách nhiệm sửa chữa, duy tu, xây dựng mới hoặc bồi thường theo quy định của pháp luật; ưu tiên sử dụng lao động địa phương vào khai thác khoáng sản và các dịch vụ có liên quan; cùng với chính quyền địa phương bảo đảm việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân có đất bị thu hồi để khai thác khoáng sản.
Tuy nhiên, theo Cục Địa chất Việt Nam, thực tế số lượng các doanh nghiệp khai thác khoáng sản quan tâm hỗ trợ người dân và địa phương nơi có khoáng sản được khai thác còn khiêm tốn. Số liệu tổng hợp từ báo cáo của 63 tỉnh/thành phố giai đoạn 2012-2020 cho thấy, các tổ chức hoạt động khoáng sản mới hỗ trợ cho người dân số tiền hơn 126 tỷ đồng. Đây là con số rất nhỏ và hạn chế. Trong khi đó, người dân, địa phương nơi có khoáng sản được khai thác là đối tượng chịu tác động trực tiếp từ hoạt động khoáng sản. Quyền lợi của họ là được hưởng một phần từ nguồn thu hoạt động khoáng sản; được doanh nghiệp khai thác hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; được chuyển đổi nghề nghiệp, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án khai thác khoáng sản,…
Theo Cục Địa chất Việt Nam, cơ chế, chính sách đảm bảo thực thi quyền lợi cộng đồng hiện nay được đánh giá là chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, còn chồng chéo. Nhiều chính sách chưa phát huy được vai trò trong quản lý cũng như điều tiết lợi ích các bên liên quan trong hoạt động khoáng sản, chưa đảm bảo thực hiện được các mục tiêu phát triển bền vững đã đặt ra. Bất cập về chính sách cũng thể hiện qua việc các quy định hiện hành không quy định rõ về tỷ lệ lao động địa phương tối thiểu doanh nghiệp phải sử dụng, về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc đảm bảo quyền lợi của người lao động. Cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng trong khu vực cũng chủ yếu dựa trên tinh thần tự nguyện, hỗ trợ của doanh nghiệp mà chưa có quy định cụ thể.
Điều đáng nói, địa phương nơi có khu vực khoáng sản khai thác chịu ảnh hưởng nặng nề do hoạt động khai thác nhưng không được đầu tư đúng mức trong vấn đề thiết yếu như: Khắc phục ô nhiễm môi trường, nước sạch hay an sinh xã hội... Chưa kể, vai trò của người dân trong hoạt động khoáng sản chưa thể hiện rõ, vẫn mang tính hình thức. Người dân chưa thực sự được tham gia, giám sát hoạt động khoáng sản đang diễn ra. Nguồn hỗ trợ, đền bù từ việc thu hồi đất đai còn hạn chế, chưa đảm bảo được sự phát triển bền vững trong tương lai. Môi trường sống của người dân ở những khu vực khai thác khoáng sản chưa thực sự được đảm bảo…
Tháo gỡ để đảm bảo quyền lợi của địa phương
Ngày 10/02/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đáng chú ý, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đã nhấn mạnh yêu cầu: Rà soát, quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khai thác khoáng sản; việc tái đầu tư nguồn thu từ khai thác khoáng sản để đầu tư phát triển giáo dục, y tế, hạ tầng, bảo đảm an sinh xã hội,... cho địa phương và người dân nơi khai thác khoáng sản.
Để tháo gỡ những bất cập của Luật Khoáng sản năm 2010 nói chung, cũng như đảm bảo quyền lợi của địa phương nơi có khoáng sản được khai thác nói riêng, Bộ TN&MT được giao chủ trì xây dựng dự án Luật Địa chất và Khoáng sản. Theo đó, các quy định tập trung vào việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương để địa phương chủ động trong việc phát triển KT-XH, phù hợp với thực tế gắn với trách nhiệm thẩm quyền được giao; thiết lập công cụ kiểm soát quyền lực, giám sát thực hiện; xử lý được những tồn tại, tiêu cực trong lĩnh vực địa chất, khoáng sản. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản; việc tái đầu tư nguồn thu từ khai thác khoáng sản để phát triển giáo dục, y tế, hạ tầng, bảo đảm an sinh xã hội,... cho địa phương và người dân nơi có khoáng sản được khai thác; hoàn thiện quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản; cấp phép hoạt động khoáng sản đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phù hợp với thực tế, nhất là cấp phép cho công trình kết cấu hạ tầng, công trình trọng điểm quốc gia.
Ngoài ra, hoàn thiện cơ chế quản lý theo nguyên tắc thị trường; kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai thác khoáng sản, bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch, chống tiêu cực, lãng phí tài nguyên khoáng sản.
Là đơn vị trực tiếp xây dựng dự án, Phó Cục trưởng Cục Khoáng sản Việt Nam Mai Thế Toản cho biết, Cục Khoáng sản Việt Nam đã chủ trì, phối hợp với Cục Địa chất Việt Nam và Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường dự thảo quyết định thành lập các Tiểu ban chuyên đề giúp việc Tổ biên tập xây dựng dự án Luật Địa chất và Khoáng sản. Đơn vị đã tổ chức rà soát và lập bảng tổng hợp các nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Khoáng sản năm 2010 theo từng nhóm tiêu chí: Tính đồng bộ về chính sách và với luật khác, sự phù hợp với các điều ước/cam kết quốc tế; các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành; đề xuất phương án giải quyết cụ thể cho từng vấn đề.
Các chuyên gia kỳ vọng, Luật Địa chất và Khoáng sản mới sẽ có những quy định cụ thể, chi tiết hơn về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản trong việc hỗ trợ địa phương và người dân nơi có khoáng sản được khai thác, đặc biệt, khai thác khoáng sản cần song hành với mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Ý kiến từ địa phương
Ông Hồ Đức Hợp, Giám đốc Sở TN&MT Yên Bái: Trong quá trình thực hiện Luật Khoáng sản, tôi cho rằng còn một số khó khăn vướng mắc cần bổ sung, sửa đổi như: Chưa có quy định cụ thể việc liên doanh, liên kết trong hoạt động khai thác khoáng sản để gắn trách nhiệm của các bên liên quan trong hoạt động khoáng sản để phù hợp, đồng bộ với Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp. Đồng thời, cũng chưa có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vốn, công nghệ, thiết bị tiên tiến để thu hồi tối đa, sử dụng tổng hợp, hợp lý, tiết kiệm khoáng sản, chưa có quy định cụ thể về mức độ chế biến sâu; chưa có cơ chế kiểm soát chặt chẽ chất lượng công tác thăm dò, đảm bảo tính chính xác của kết quả thăm dò.
Việc hạch toán các chi phí phục hồi môi trường hiện chưa có quy định cụ thể; hỗ trợ xây dựng, cải tạo các công trình hạ tầng kỹ thuật công cộng do hoạt động khoáng sản gây ra, dẫn đến không thể tính toán rõ hiệu quả khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của địa phương và người dân nơi có khoáng sản được khai thác. Ngoài ra, quy định về phương thức xác định thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm chủ trì việc đền bù thiệt hại khi khu vực khoáng sản được công bố là khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực tạm cấm hoạt động khoáng sản cũng cần được bổ sung; và các quy định về thu hồi, xử lý tài sản khi Giấy phép khai thác khoáng sản bị thu hồi, chấm dứt hiệu lực cũng cần được quy định. Tôi cho rằng, cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của đơn vị khai thác khoáng sản đối với người dân và địa phương nơi có khoáng sản được khai thác để làm cơ sở cho các doanh nghiệp triển khai thực hiện và công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước,… Đó là một số tồn tại trong thực hiện mà để phát triển công nghiệp khai khoáng đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển bền vững mà chúng ta cần khắc phục và hoàn thiện.
Ông Võ Văn Minh - Sở TN&MT Đắk Nông: Từ khi Luật Khoáng sản năm 2010 có hiệu lực thi hành, tỉnh Đắk Nông đã nghiêm túc triển khai thực hiện. Trong đó, Đắk Nông đã cơ bản phòng ngừa, ngăn chặn, đảm bảo an ninh - trật tự có liên quan đến hoạt động khai thác khoáng sản. Tuy vậy, còn một số khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện tại địa phương. Cụ thể, trong quản lý khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 64 có quy định tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường không phải đề nghị cấp Giấy phép khai thác khoáng sản khai thác trong diện tích đất ở thuộc quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để xây dựng các công trình của hộ gia đình, cá nhân trong diện tích đó. Tuy nhiên, trên thực tế tại địa phương xảy ra các trường hợp như khai thác đất san lấp thuộc đất ở hộ gia đình, cá nhân khai thác trong diện tích đất ở thuộc quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đó nhưng không sử dụng mà cho người khác sử dụng hoặc đổ vào các vị trí được UBND các huyện, thị xã dự kiến là bãi thải đất đá dư thừa trong quá trình khai thác đất của hộ gia đình, trường hợp này phải được xử lý như thế nào?
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có một số doanh nghiệp khai thác đá bazan làm vật liệu xây dựng thông thường, nhưng có thu hồi một khối lượng đá có thể sử dụng làm đá ốp lát và trang lát, theo Báo cáo của cơ quan Thuế thì khối lượng không nhiều, khoảng 3.000 - 4.000 m3/năm, nhưng theo quy định thì thẩm quyền thu hồi loại khoáng sản này thuộc Bộ TN&MT. Song thủ tục hành chính này chưa được quy định rõ ràng,... trước những vướng mắc đó, Sở TN&MT Đắk Nông kiến nghị Bộ TN&MT tiếp tục có hướng dẫn để giúp địa phương thực hiện quản lý về khoáng sản được hiệu quả.
Ông Võ Văn Ngọc - Sở TN&MT Nghệ An: Cần quy định rõ về đất dôi dư trong quá trình cải tạo nền nhà, vườn, ruộng đồng - Đó là một trong những kiến nghị của Sở TN&MT tỉnh Nghệ An về một số vướng mắc trong quá trình thực thi Luật Khoáng sản năm 2010 tại địa phương. Theo đó, Luật Khoáng sản năm 2010 chưa có quy định rõ về xử lý lượng đất dôi dư trong quá trình cải tạo nền nhà, vườn, ruộng đồng. Cụ thể, Nghệ An có địa hình bán sơn địa, người dân tại các huyện chủ yếu làm nhà sống theo các sườn đồi; ruộng nương không bằng phẳng. Khi xây dựng nhà ở, cải tạo vườn đồi, ruộng đồng thì có một lượng đất dôi dư. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 64, Luật Khoáng sản năm 2010 quy định “Khai thác trong diện tích đất ở thuộc quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để xây dựng các công trình của hộ gia đình, cá nhân trong diện tích đó”. Vì vậy, không có cơ sở để giải quyết đối với lượng đất dôi dư khi người dân có nhu cầu hạ nền nhà, cải tạo vườn hoặc cải tạo ruộng nương. Vì thế, đề nghị được đưa nội dung cải tạo đất vườn, đồi, đất sản xuất nông nghiệp (không phải là đất ở) dôi dư trong quá trình cải tạo được phép tận thu và đóng các loại thuế, phí cho ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra, theo thực tế tại địa phương, công tác bảo vệ khoáng sản chưa khai thác là nhiệm vụ thường xuyên, nhưng đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể về nguồn kinh phí, định mức chi, cơ chế phối hợp,… dẫn tới gặp nhiều vướng mắc, khó khăn khi thực hiện. Vấn đề nữa là đối với các khu vực mỏ đã được đấu giá quyền khai thác khoáng sản vẫn phải thực hiện nội dung chấp thuận chủ trương đầu tư trong thành phần Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép hoạt động khoáng sản được quy định tại khoản 1, Điều 51 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP.
NGUYỄN ĐẶNG HỒNG SƠN
Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản
Trích: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 15 (Kỳ 1 tháng 8) năm 2023