
Ô nhiễm môi trường trong khai thác mỏ
Khai trường rất rộng lớn, tiếng ồn từ các thiết bị khoan, nổ mìn đá và quặng sẽ vang dội cả một vùng rộng lớn, ảnh hưởng đến người dân các xã lân cận. Tiếng ồn từ các xe tải chở quặng lại càng tác động rất lớn tới cả vùng, trong đó có TP. Hà Tĩnh. Mặt khác, do quá trình nổ mìn quy mô công nghiệp để phá các tảng đá và quặng lớn, máy nghiền quặng sẽ càng gây ra tiếng ồn và bụi mịn đến cà vùng ven biển theo chiều dài, kể cả TP. Hà Tĩnh (nay cách khoảng 7 km vì thành phố đã được mở rộng).
Trong các cồn cát ven biển, nước ngầm tồn tại dưới dạng các thấu kính nước ngọt có liên hệ chặt chẽ với nước biển. Khi khai thác quặng sắt ở quy mô moong rộng lớn và sâu sẽ hút nước ngọt và làm giảm mực nước ngầm của toàn vùng, đặc biệt là trong các giếng sinh hoạt của dân cư. Khi hạ mực nước ngầm, ranh giới mặn ngọt của các phức hệ chứa nước trong các thấu kính liên thông với nước biển sẽ dịch chuyển vào phía đất liền, gây nhiễm mặn nước ngọt. Càng khai thác xuống càng sâu, mực nước ngầm càng hạ xuống thấp, suy giảm và nguy cơ cạn kiệt, sa mạc hóa cả vùng mỏ của 5 xã lân cận vùng mỏ. Theo hiện trạng thực tế hiện nay, cũng như báo cáo của UBND huyện Thạch Hà và xã Thạch Hải, từ năm 2011 đến nay mực nước ngầm bị hạ thấp mạnh do Công ty Khai thác sắt Thạch Khê bóc thử đất đá đến độ sâu 34 m.
Vấn đề ô nhiễm sulphat đất canh tác là hiện hữu vì vùng Bãi Ngang là đất cát do nước thải của mỏ, khi các mương thoát này không có kết cấu cách nước bền vững (đạt đến độ sâu của tầng cách nước - đất sét). Bãi thải bùn cát sẽ trôi xuống đáy moong khai thác. Các bãi thải phải có kết cấu sao cho nước mỏ không thể thấm ra xung quanh và dưới đáy bãi thải, có nghĩa là đáy bãi thải phải là tầng đá cách nước (tầng sét dày). Việc đổ đất đá thải xuống biển sẽ có tác động rất lớn đến địa hình và cảnh quan đường bờ biển. Cần nghiên cứu một cách chi tiết và đầy đủ, dự báo một cách có cơ sở khoa học và thực tiễn về động lực biển, chế dộ dòng chảy, chế dộ thủy động lực, cân bằng trầm tích, địa hình đáy biển và tính ổn định bờ biển của vùng lân cận ở phía Bắc (Nghệ An) và phía Nam (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng); ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy hải sản, du lịch; các hệ sinh thái và môi trường ven biển; tích tụ các hợp chất gây ô nhiễm trong môi trường nước, trong sinh vật biển và vật liệu trầm tích và các hoạt động KT-XH của vùng mỏ.
Rõ ràng các quá trình này luôn luôn tạo ra các axit sulphric, các muối carbonat của chì và kẽm trong đất, trong nước biển và nước bề mặt và sẽ ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong mẫu nước của mong mở vỉa Thạch Khê cho thấy, độ Ph trung tính và hơi axit, hàm lượng các kim loại nặng khá cao; hàm lượng ion Fe rất cao, vượt cả tiêu chuẩn dùng cho tưới tiêu, thủy lợi. Nếu khai thác đến độ sâu -550 m tức là quặng sắt giàu, cao lưu huỳnh và các pha cuối cùng của quá trình tạo quặng (pha tạo các sulphua kim loại nặng) thì chắc chắn hàm lượng các nguyên tố trên sẽ tăng cao đặc biệt rất có khả năng tích lũy kim loại nặng trong sinh khối sinh vật vùng nuôi trồng thủy hải sản.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dẫn dầu đoàn khảo sát tại khu vực mỏ sắt Thạch Khê. Thủ tướng yêu cầu nghiên cứu kỹ lưỡng để tiếp tục hay dừng khai thác mỏ sắt này. Tuy nhiên, dự án này còn tồn tại nhiều vấn đề. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc chấm dứt hoạt động dự án là tối ưu bởi dự án không đảm bảo điều kiện để tiếp tục triển khai. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng, việc quyết định dừng hay tiếp tục triển khai dự án mỏ sắt Thạch Khê phải có đánh giá khoa học, khách quan, có đánh giá tác động tổng thể từ kinh tế đến xã hội, đời sống người dân,... Việc đánh giá cũng phải mang tính dự báo dài hơi. Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, đang xuất hiện các ý kiến trái chiều giữa lợi ích kinh tế từ dự án và quy hoạch phát triển du lịch, đời sống người dân. Thời gian tới, cần có sự tính toán theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể để lựa chọn hướng đi phù hợp.
Kiến nghị giải pháp
Mỏ quặng sắt Thạch Khê được thăm dò năm 1985, nghĩa là đã 39 năm, mọi yếu tố đầu vào nay đã thay đổi, nên cần được đánh giá lại xem có giá trị kinh tế hay không, tức là có được gọi là “mỏ khoáng công nghiệp hay không” hay chỉ là tụ khoáng. Mặt khác, cấu trúc địa chất mỏ hết sức phức tạp, vừa sâu lại gần biển, nằm dưới trầm tích bở rời, ở khoảng độ sâu từ -14,3 m - 42,18 m, tới khoảng độ sâu - 415,14 m đến 419 m và sâu nhất đến hơn 700 m.
Cần có các công trình nghiên cứu chuyên sâu bổ sung về điều kiện địa chất công trình - địa chất thuỷ văn (ĐCCT-ĐCTV) của mỏ: Các đới karst, các đới nứt nẻ trong đá sừng, đá cát bột kết; quy mô và phương thức quan hệ thủy lực giữa nước mặt và nước dưới đất, với nước biển, bơm hút nước thí nghiệm quy mô khai thác, biện pháp tháo khô mỏ,… ảnh hưởng đến khai thác mỏ. Điều kiện ĐCCT-ĐCTV cực kỳ phức tạp, hoàn toàn không thuận lợi cho khai thác. Hơn thế nữa, mỏ cần được nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi một cách có hệ thống, toàn diện đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường theo chủ trương không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế. Công nghệ khai thác mỏ quặng chưa có tiền lệ trên thế giới và Việt Nam sẽ gặp muôn vàn khó khăn và rủi ro có thể xảy ra. Hơn thế nữa, quặng nằm trong đá skarn và đá vôi có các hang karst chứa nước. Khối lượng bóc đất đá thải từ đại công trường vô cùng lớn, khoảng hơn 650 triệu mét khối. Nếu khai thác xuống 400-550 m, mở rộng khai trương lên 4-5 lần thì khi bơm nước tháo khô mỏ rất có khả năng nước biển từ Biển Đông và phía sông Hạ vàng sẽ xâm nhập vào các tầng chứa nước ngọt trong các cồn cát. Cuối cùng, đất bị nhiễm mặn, thảm thực vật và cây trồng sẽ lụi tàn dần, hệ sinh thái vốn có sẽ khó tồn tại. Cả vùng đất cát của huyện Thạch Hà nguy cơ thành sa mạc.
Như vậy, tiềm năng ô nhiễm môi trường là hiện hữu, từ nước ô nhiễm nước ngầm, nước biển, sinh thái biển cũng như cạn kiệt nước ngầm, ô nhiễm bụi trong không khí và ảnh hưởng đến tài nguyên kinh tế ven biển – du lịch và đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Bộ TN&MT đánh giá, dự án chưa có giải pháp xử lý khi gặp hang động ngầm thông biển, hang caster, dẫn đến không thể khai thác giai đoạn 1 và bổ sung nghiên cứu, cập nhật điều kiện khai thác. Dự án có nhiều nguy cơ gây tụt nước ngầm, sa mạc hóa, đổ nước thải ra biển gây ô nhễm,… Hiện tại dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê cũng chưa đảm bảo nghiên cứu các yếu tố khoa học kỹ thuật, đánh giá tác động môi trường nên chưa cần thiết khai thác, có thể chờ thêm thời gian nghiên cứu, thẩm định nhiều mặt.
Trước đây những người đề xuất cho khai thác mỏ sắt Thạch Khê nay vẫn trăn trở vì nhiều lý do, về an ninh xã hội, vì lý do môi trường và nhiều vấn đề hệ lụy khác cần phải tính đến. Thậm chí các tỉnh Bắc Trung Bộ cũng đề xuất nếu Hà Tĩnh khai thác mỏ sắt Thạch Khê thì vấn đề hệ lụy môi trường, ảnh hưởng đến du lịch, thương mại trong vùng cần phải tính toán.
PGS. TS. TRẦN BỈNH CHƯ
Đại học Mỏ - Địa chất
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 3 năm 2024