
Ông Mai Thế Toản - Phó Cục trưởng Cục Khoáng sản Việt Nam: Hệ thống văn bản pháp luật về địa chất, khoáng sản cơ bản đầy đủ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về khoáng sản; đẩy mạnh điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản và công nghiệp khai khoáng; quản lý khoáng sản ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn. Việc xây dựng Nghị định nhằm tiếp tục thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 10-NQ/TW khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập của các Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản năm 2010; tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch; khắc phục các bất cập nhằm quản lý thống nhất lĩnh vực địa chất, khoáng sản; quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả khoáng sản.
Dự thảo Nghị định gồm có 7 điều, bao gồm: Điều 1. Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 158/2016/ NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản; Điều 2. Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 22/2012/NĐ-CP quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản (KTKS); Điều 3. Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 67/2019/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền KTKS; Điều 4. Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 23/2020/ NĐ-CP về quản lý cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng, bờ, bãi sông. Điều 5. Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 51/2021/NĐ-CP về quản lý khoáng sản tại các khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia; Điều 6. Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 36/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực TNN và khoáng sản; Điều 7. Trách nhiệm thi hành.
Ông Nguyễn Tiến Mạnh - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV): KTV đề nghị, Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung: “Tổ chức, cá nhân KTKS phải lắp đặt trạm cân để kiểm soát toàn bộ khoáng sản nguyên khai khai thác, ngoại trừ một số trường hợp theo quy định; lắp đặt camera giám sát tại các kho chứa để lưu trữ thông tin, số liệu có liên quan”. Đồng thời, bổ sung hệ số thu hồi liên quan đến phương pháp khai thác đối với khoáng sản đi kèm, đặc biệt là thành phần có ích đi kèm nằm trong quặng khoáng sản chính không thể tách riêng trong quá trình khai thác, chỉ có thể thu hồi trong quá trình tuyển, luyện. Vì thu hồi kết hợp trong quá trình tuyển khoáng sản chính nên hệ số thu hồi hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ tuyển khoáng sản chính và thường thấp hơn công nghệ tuyển riêng.
Về trữ lượng để tính tiền cấp quyền KTKS, TKV đề nghị, đối với các Giấy phép KTKS cấp sau ngày Nghị định số 158/2016/ NĐ-CP có hiệu lực, trữ lượng tính tiền cấp quyền KTKS (Q) là trữ lượng khai thác được quy định trong Giấy phép KTKS. Đồng thời, TKV đề nghị sửa đổi quy định cho phép tổ chức, cá nhân KTKS được nộp tiền cấp quyền KTKS tương ứng theo sản lượng khai thác thực tế và nộp hàng năm theo số năm được cấp phép khai thác.
Ông Phạm Nguyên Hải - Trưởng Phòng Pháp chế, Công ty TNHH khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo cho biết: Thực tế khai thác và chế biến cho thấy, với công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến, khả năng thu hồi được thêm các khoáng sản đi kèm trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản chính là rất cao. Tuy nhiên, vướng mắc đối với các khoáng sản đi kèm nằm ở chỗ chúng không được đề cập đến trong báo cáo phê duyệt trữ lượng, không có phương án kỹ thuật để thu hồi trong thiết kế khai thác mỏ, không được tính toán giá trị kinh tế khi xây dựng mô hình kinh doanh của dự án khai thác, dẫn đến việc doanh nghiệp khai thác thường phải cân nhắc lợi ích kinh tế và hiệu quả đầu tư khi thu hồi.
Để đảm bảo việc khai thác, tận dụng triệt để, không gây lãng phí tài nguyên có giá trị, Công ty TNHH khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo đề nghị các đơn vị soạn thảo cân nhắc xây dựng cơ chế ưu đãi để các doanh nghiệp có cơ sở thu hồi khoáng sản đi kèm. Cụ thể, các đơn vị soạn thảo cân nhắc không thu tiền cấp quyền khoáng sản với khoáng sản đi kèm (trừ trường hợp đã có cơ sở để xác định rõ trữ lượng cần thu hồi) và không yêu cầu điều chỉnh toàn bộ Giấy phép Khai thác để phục vụ mục đích thu hồi khoáng sản đi kèm. Ngoài ra, các loại thuế, phí đối với khoáng sản đi kèm sẽ được tính trên cơ sở khối lượng khoáng sản đi kèm là thành phẩm cuối cùng đã thu hồi được, riêng đối với mức phí bảo vệ môi trường sẽ được đóng như trong trường hợp tận thu khoáng sản. Đồng thời, các đơn vị soạn thảo cân nhắc không xếp các thành phần khoáng sản có hàm lượng dưới biên hoặc bị làm nghèo trong quá trình khai thác vào thành khoáng sản đi kèm, vì nếu doanh nghiệp khai thác đầu tư công nghệ chế biến hiện đại thì vẫn có thể phối trộn với các thành phần khoáng sản có hàm lượng cao để đưa vào chế biến và thu được thành phẩm đạt yêu cầu.
Công ty TNHH khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo cũng đề xuất: Đối với quy định về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung, phê duyệt lại, hoàn trả tiền cấp quyền KTKS, bên cạnh trường hợp có thay đổi về trữ lượng được phép đưa vào thiết kế khai thác, nên bổ sung thêm trường hợp điều chỉnh, hoàn trả tiền cấp quyền KTKS khi số tiền cấp quyền KTKS được tính toán lần đầu hoặc tạm tính là chưa chính xác, nhưng tổ chức, cá nhân KTKS đã đóng đủ theo mức đó (đã đóng dư so với số tiền cấp quyền KTKS được xác định chính thức).
Đơn vị soạn thảo cân nhắc bổ sung các tiêu chí về cấp trữ lượng khoáng sản (chất lượng khoáng sản) và tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác, chế biến vào công thức tính tiền cấp quyền KTKS để đảm bảo phù hợp với quy định về các tiêu chí xác định tiền cấp quyền KTKS trong Luật Khoáng sản năm 2010. Đồng thời, cần quy định rõ hơn về cách thức giải quyết sự khác nhau giữa các hệ số được sử dụng cho việc xác định tiền cấp quyền KTKS theo Nghị định 67/2019/NĐ-CP với Nghị định sửa đổi trong thời gian chuyển tiếp giữa hai Nghị định.
Hà Anh (tổng hợp)