Hệ sinh thái đô thị biển đa chiều với các cực không gian kinh tế biển ở nước ta

Thứ tư, 20/10/2021, 06:32 (GMT+7)
logo Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, cần “mạo hiểm” tiến ra biển lớn bằng việc sớm hoàn thiện các chuỗi đô thị biển để góp phần khẳng định thế đứng của một “Quốc gia biển” chứ không phải “Quốc gia ven biển”, đồng thời góp phần thực hiện thành công “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Hệ sinh thái đô thị biển đa chiều với các cực không gian kinh tế biển ở nước ta

Ảnh minh họa

Phát triển hệ thống đô thị biển Việt Nam phải được thể chế hóa, được nhìn nhận như một không gian quan trọng trong không gian biển quốc gia và đô thị biển phải trở thành một lĩnh vực kinh tế biển quan trọng, giúp cho kinh tế biển nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xanh và bền vững với văn hóa biển độc đáo.

Có các cực phát triển ven biển và trên biển thì phải có chuỗi liên kết như thế nào? Trả lời câu hỏi này chính là việc giải bài toán tổ chức lại không gian kinh tế biển (KTB) và nó đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược, tổng thể và toàn diện, đi cùng với các giải pháp có tính đột phá. Trong đó, phát triển đúng hướng, hiệu quả hệ thống đô thị biển (ĐTB) với các chuỗi đô thị ven biển, chuỗi đô thị đảo và chuỗi đô thị nổi trên biển nói trên sẽ tạo nên các điểm cực phát triển tốt trong mỗi chuỗi. Tốt không chỉ cho chính nó (điểm cực) mà còn góp phần tạo động lực lan tỏa, tác động mạnh trở lại những vùng đất nội địa chứ không chỉ là đất liền tác động đến khu vực ven biển và biển, đảo như hiện nay, đồng thời cũng tác động mạnh đến không gian biển rộng lớn của đất nước. Ngoài ra, đây còn là bài toán của địa kinh tế, địa chính trị, gắn phát triển KT-XH với bảo vệ các quyền và lợi ích của nước ta trên Biển Đông trong bối cảnh khu vực biển này là không gian chịu ảnh hưởng của các chiến lược nước lớn, như: Sáng kiến “Con đường tơ lụa trên biển Thế kỷ 21” của Trung Quốc và Chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở” của Mỹ.

Vì vậy, muốn phát triển các cực KTB để thúc đẩy liên kết vùng trong phát triển kinh tế ven biển - biển - đảo thì chúng ta phải xem xét đồng bộ việc kết nối các đô thị ven biển cũ và mới, sớm hình thành chuỗi đô thị đảo, kể cả đô thị nổi trên biển và đặt chúng trong một chỉnh thể không gian: Ven biển - biển - đảo. Trước tiên, cần chỉnh trang, nâng cấp các ĐTB cũ như thế nào, theo mô hình nào? Hình thành các ĐTB mới theo nguyên lý nào? Nhìn lại các ĐTB cũ như: TP. Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu,...và các khu đô thị mới tiềm năng, như: Vũng Áng (có thể tương lai là thành phố Kỳ Anh), Dung Quất (có thể tương lai là TP. Núi Thành),... thấy rõ đây là những đô thị ven biển hình thành một cách tự nhiên, dựa trên định hướng mối quan hệ giữa: Cảng - biển - đô thị. Trên cơ sở xem xét, nghiên cứu như vậy sẽ tìm ra mô hình mới đa dạng, hiệu quả, thích hợp, kế thừa và độc đáo. Ngoài đảo cũng vậy, đô thị đảo phải có mô hình riêng, phải giải quyết tốt mối quan hệ tương tác giữa đất và biển, “thuận thiên” và hài hòa các lợi thế của và lợi ích từ biển và đất trên đảo. Kinh tế đảo, vì thế cũng phát triển theo hướng đô thị thông minh, xanh và bền vững dựa vào bảo tồn (vốn và tài sản tự nhiên biển, đảo). Khi đó, các đô thị đảo sẽ được kiến thiết theo hướng “đô thị đảo xanh” - là một cực giao thương trên biển và kết nối với đất liền. Trong bối cảnh có sự chuyển dịch rõ rệt cấu trúc an ninh - chính trị trên thế giới, trong khu vực và Biển Đông nằm trong “gọng kìm” của các sáng kiến nước lớn, thì ngoài việc củng cố các đô thị ven biển, phát triển đô thị đảo, Việt Nam cần nghĩ đến xác lập các “đô thị nổi” trên biển ở những địa điểm phù hợp, có khả năng tạo ra “lực hút và đẩy” khi cần thiết.

Muốn kết nối hệ thống ĐTB, bao gồm đô thị ven biển, đô thị đảo và đô thị nổi trên biển như nói trên, cần dựa trên 3 yếu tố cơ bản là không gian biển, không gian đảo và không gian ven biển. Khi quy hoạch không gian một ĐTB phải tính đến ba mảng không gian nói trên (trực tiếp hay gián tiếp). Đây là điểm khác cơ bản so với quy hoạch phát triển các đô thị trên đất liền. Chiến lược hướng tới một nền “kinh tế biển xanh” đã được xác định trong “Chiến lược phát triển bền vững KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Dù không phải sớm, nhưng đây cũng là căn cứ để từ đó chúng ta có những quyết sách phát triển cụ thể, trong đó có công tác quy hoạch các ĐTB. Sau khi đã xác định được hướng đi chiến lược rồi thì hình hài (mô hình) ĐTB ra sao phải là câu chuyện tiếp theo của các nhà chuyên môn, trước hết là các nhà quy hoạch và kiến trúc đô thị. Cần nghiên cứu kỹ, có trách nhiệm, thận trọng, khách quan (không bị sức ép cục bộ nào) để có được các “chuẩn mực” ĐTB - là mô hình tham khảo khi quy hoạch và kiến trúc một đô thị cụ thể (ở ven biển, trên đảo và trên biển). Khi đó, chúng ta tránh được bệnh hội chứng trong phát triển đôi khi vẫn gặp hiện nay, ví như cách “bê mảnh vỡ” nham nhở của một đô thị cũ ven biển áp đặt ra một hòn đảo có thiên nhiên hoang dã, phá vỡ thế mạnh của không gian đảo,... ĐTB không chỉ là đô thị “thông thường”, mà phải thực sự là cực đô thị tăng trưởng trên không gian biển, phải là điểm nối kết các điểm cực tăng trưởng trong 3 mảng không gian biển, đảo và ven biển nói trên, đồng thời cũng là nơi tích tụ dân số biển, đảo. Vì thế, thiết nghĩ hệ thống ĐTB phải chiếm vị trí xứng đáng trong “Quy hoạch không gian biển quốc gia” theo Luật Quy hoạch năm 2017 để kinh tế biển phát triển theo hướng “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” trong điều kiện Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Trong thực tế, ĐTB ở nước ta hiện mới thấy phát triển tập trung ở dải ven biển - chỉ là các đô thị ven biển, và cuối năm 2020 lần đầu tiên Chính phủ cho phép chính thức xây dựng đô thị đảo Phú Quốc. Chưa hình thành “chuỗi đô thị đảo” theo đúng nghĩa của nó, cũng như chưa có đô thị nổi trên biển. Trong khi ở một số quốc gia trên thế giới, ngoài phát triển các đô thị ven biển đã có những đô thị đảo nổi tiếng từ những thế kỷ trước (ví dụ, các nước ở khu vực Địa Trung Hải), đô thị trên các đảo nhân tạo, đô thị “nổi trên biển” gắn với cảng biển nổi, sân bay nổi,... cũng đã và sẽ được xây dựng (ví dụ, ở các nước Trung Đông và Nhật Bản,...). Các dạng ĐTB này được xây dựng ban đầu từ vốn tự nhiên và vốn con người, quá trình phát triển sẽ tích tụ dân số và tăng vốn xã hội,... Do vậy, cũng có những giá trị đã bị hoặc sẽ phải bị đánh đổi bên cạnh những giá trị đặc thù còn tồn tại và những giá trị đặc hữu cần phải giữ lại. Cần nhắc lại rằng, đô thị nổi trên biển, như tên gọi của nó, phát triển dựa vào biển thay vì dựa vào đất như các dạng đô thị trên đất liền hay trên đảo. Nền tảng của ĐTB, tùy theo vị trí của nó, phải là thế mạnh của KTB, kinh tế ven biển và kinh tế đảo (hiện gặp trở ngại do KTB được hiểu là kinh tế tổng hợp, bao gồm cả kinh tế của các xã, huyện ven biển, hoặc thậm chí tính cả kinh tế toàn tỉnh ven biển). Sự thiếu sót trong nhận diện quy mô của kinh tế biển đã làm mất đi giá trị cốt lõi của nó và ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về ĐTB, đặc biệt đô thị đảo. An ninh quốc gia, lợi thế cạnh tranh và khả năng hội nhập trên biển cũng theo đó có thể bị suy giảm, bị đẩy lùi vào thị trường nội địa ngày một eo hẹp và bấp bênh.

Chính những áp đặt cách hiểu chủ quan về tiềm năng không gian biển cũng dẫn đến những thiếu sót trong việc xác định quy mô và hình thái ĐTB với 3 loại hình đô thị nói trên. Yếu tố biển phải được đưa vào trung tâm của bài toán phát triển đô thị đảo thay vì phát triển thuần túy dựa vào việc “chia lô, bán nền” như ở một số “đô thị đảo đang phôi thai” hiện nay. Ví dụ, giá trị thực sự của Phú Quốc nằm ở các hòn đảo vệ tinh, cách “đảo mẹ Phú Quốc” chừng 3 - 10 km, trong không gian biển có những rạn san hô ngầm, các bãi cỏ biển với các quần xã sinh vật biển đa dạng, phong phú, cùng các bãi cát biển, gò ngầm dài ngắn khác nhau rất đẹp. Chính các giá trị dịch vụ tự nhiên biển như vậy đã tạo cho Phú Quốc sự hấp dẫn đến lạ thường. Sự hoang sơ của biển cả vẫn chưa được đánh giá đúng chân giá trị “biển bạc” của nó, mà các giá trị trước mắt của “đất vàng” vẫn hấp dẫn không chỉ các nhà đầu tư “nâu” mà còn cả một số nhà hoạch định chính sách và quy hoạch. Cách nghĩ, cách làm như thế sẽ hướng đến các quyết định lấn biển bằng mọi giá để tạo thêm quỹ đất, không hoặc ít chú trọng gìn giữ, bảo vệ các nguồn vốn và tài sản tự nhiên giá trị để đời của biển, trong khi nguồn vốn quý gía này có biểu hiện tiêu hao. Ngoài ra, các “viên ngọc xanh trên nền biển bạc” như các cụm đảo Cô Tô, Vân Đồn (Quảng Ninh), Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu),... là những địa điểm phát triển đô thị đảo tiềm năng, trong chừng mực nhất định, cũng đang vấp phải những vấn đề cụ thể nói trên mà chỉ có đặt vào tầm nhìn tổng thể, toàn diện mới tháo gỡ được.

Do đó, trong quá trình phát triển các loại hình ĐTB nên xác định:

“Mô hình ĐTB như là một “Hệ sinh thái ĐTB” đa chiều, đa phương, đa diện, đa dạng và đa dụng. Nó có đầy đủ chức năng và cấu trúc của một phức hệ sinh thái tự nhiên - nhân sinh, có các dòng vật chất tương tác bên trong và bên ngoài hệ thống. Mô hình vừa hiện đại, vừa dân tộc; bảo đảm an ninh, an toàn và an sinh; và vừa có tính đặc thù vùng miền cho một đô thị ven biển, đô thị đảo hay đô thị trên biển”.

Ủng hộ sáng kiến xây dựng một mô hình ĐTB cấu trúc đa chiều, vì đô thị vốn là một thực thể mang tính nhân văn, hay nói cách khác cũng là một hệ sinh thái được con người tạo ra từ chính các nguồn lực trong tự nhiên (tài sản và vốn tự nhiên). Hệ sinh thái đa chiều lồng ghép cả 5 yếu tố chính: Tự nhiên, kinh tế, con người, văn hóa và công nghệ, nhưng vẫn đảm bảo có chức năng riêng để tồn tại và phát triển độc lập, và tính liên kết với các hệ sinh thái (tự nhiên và nhân sinh) khác xung quanh nó để hệ phát triển nhưng không cô lập. Do đó, cần xác định rõ cấu trúc, chức năng và các dòng quan hệ nội tại của đô thị và các tương tác với môi trường xung quanh.

Cần chú ý làm rõ chức năng trung tâm của hệ sinh thái ĐTB đa chiều. Một hệ sinh thái đô thị bao giờ cũng là thành phần của một hệ thống lớn hơn và đồng thời lại bao chứa một hoặc nhiều hệ thống nhỏ hơn. Do đó, thông qua tương tác đa chiều, đô thị kiểu này hội tụ các nguồn lực, các dòng vật chất cả bên trong lẫn bên ngoài, và cứ thế phát triển. Khi đó, đô thị mới có thể phát huy được khả năng tích tụ, không chỉ đối với đất đai mà còn đối với dân số biển đảo, gia tăng nhu cầu nội vùng và tạo động lực phát triển kinh tế của chính đô thị và vùng chung quanh.

 Cuối cùng, cần xác định tính trội của một hệ sinh thái ĐTB đa chiều là một trong 3 thuộc tính vốn có trong mỗi hệ thống (tự nhiên và nhân sinh): Tính trội, tính đa dụng và tính liên kết (liên kết nội tại và liên kết vùng). Đây là ba yếu tố đóng vai trò quan trọng trong xây dựng phương pháp luận về mô hình phát triển hệ sinh thái ĐTB đa chiều. Nghiên cứu mô hình hệ sinh thái ĐTB đa chiều cần được đặt vào bối cảnh một vùng ven biển hoặc một vùng biển - đảo cụ thể ở Việt Nam. Khu vực ven biển luôn được hiểu là bàn đạp để “tiến ra” biển, còn con người tuy rất nhỏ bé khi hiện diện trong không gian biển rộng lớn nhưng lại là những cột mốc chủ quyền tự nhiên của quốc gia.

PGS TS. NGUYỄN CHU HỒI

Nguyên phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển đảo Việt Nam