
Giải pháp thực hiện mục tiêu
Để đạt được các mục tiêu kể trên, Nghị quyết 02 đề ra các giải pháp cụ thể, trong đó đáng chú ý là các giải pháp về đổi mới cơ chế, chính sách tài chính trong lĩnh vực khoáng sản vốn được coi là công cụ quản lý nhà nước (QLNN) về hoạt động khoáng sản.
Bốn giải pháp đổi mới cơ chế chính sách tài chính được đề cập bao gồm: Đổi mới chính sách tài chính đối với hoạt động điều tra, thăm dò, khai thác, chuyển nhượng khoảng sản; xác định đúng giá trị tài nguyên khoáng sản được khai thác, xây dựng cơ chế đấu giá quyền KTKS, bảo đảm lợi ích của Nhà nước phù hợp với đặc điểm của từng loại khoáng sản; điều chỉnh kịp thời, hợp lý các loại thuế liên quan đến hoạt động khai thác, chế biến và xuất khẩu khoáng sản, tăng thu NSNN; có cơ chế thu hồi kinh phí nhà nước đã đầu tư cho công tác điều tra, thăm dò khoáng sản; điều chỉnh mức ký quỹ bảo đảm phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai trong từng thời kỳ để đảm bảo trách nhiệm của các tổ chức KTKS.
Ngay trước khi Nghị quyết 02 được ban hành, Quốc hội đã thông qua LKS 2010 và cuối tháng 12/2011, Chính phủ tiếp tục phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 tại Quyết định số 2427/QĐ-TTg ngày 22/12/2011 cùng các văn bản pháp luật liên quan nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tài nguyên khoáng sản theo hướng tăng cường quản lý, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả khoáng sản đang khai thác; đảm bảo QP-AN và BVMT, KTKS phải gắn liền với phát triển bền vững.
Với định hướng chỉ đạo này, tình trạng cấp phép tràn lan, đặc biệt cấp phép các mỏ có quy mô nhỏ cơ bản đã được khác phục; cấp phép KTKS dẫn chuyển đổi từ hình thức cấp quyền KTKS không thông qua đấu giá sang hình thức đấu giá công khai, minh bạch, tạo điều kiện thu hút, lựa chọn các nhà đầu tư có kinh nghiệm và đủ tiềm lực vốn, công nghệ, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và tăng thu NSNN.
Là quốc gia có nhiều tiềm năng trong lĩnh vực khai khoáng với nhiều loại khoáng sản đang được khai khác ở quy mô lớn, Việt Nam đã xây dựng tương đối hoàn chỉnh hệ thống chính sách tài chính, được thiết kế theo chuỗi giá trị ngành công nghiệp khai thác, từ giai đoạn cấp phép thăm dò đến tiêu thụ hay xuất khẩu sản phẩm. Ngoài ra, Việt Nam cũng nằm trong số ít các quốc gia có nhiều khoản thu riêng đối với hoạt động KTKS và mức thu tổng hợp từ các loại khoáng sản khác nhau (ngoại trừ dầu khí) theo các chính sách quy định cũng được đánh giá khá cao so với những quốc gia khác được so sánh,… Tuy nhiên, một số chính sách như đấu giá quyền KTKS qua 10 năm thực thi LKS vẫn chưa đạt được kỳ vọng về hiệu quả về tăng giá trị của mô thông qua hình thức đấu giá công khai, minh bạch. Tổng số tiền thu được thông qua đấu giá tính đến năm 2019 mới chỉ đạt hơn 800 tỷ đồng, thấp hơn rất nhiều so với số tiền cấp quyền KTKS thu được hàng năm (từ 4000 - 4.500 tỷ đồng). Một số quy định mới của LKS lần đầu được thực hiện nên việc xây dựng các văn bản hướng dẫn còn chậm triển khai, chưa có quy định về đánh giá hay tính toán các chi phí phục hồi môi trường cũng như những tác động do hoạt động KTKS gây ra.
Nhiều chuyên gia thuộc Cục Khoáng sản Việt Nam đánh giá, KTKS ở Việt Nam “thu ít mất nhiều, đơn cử trong giai đoạn từ năm 2011 - 2015, thu thuế tài nguyên chỉ chiếm tỉ trọng hạn chế, trung bình đạt 1,02% so với tổng thu NSNN, không tương xứng với mức độ khai thác và gây lãng phí tài nguyên, chứa kể những tác động tiêu cực tới môi trường xã hội, không bảo đảm yêu cầu về phát triển bền vững. Giai đoạn từ năm 2011 - 2020 cũng chứng kiến sự giảm dần của ngành khai khoáng trong nền kinh tế của Việt Nam với tỷ trọng giá trị tăng thêm của ngành khai khoáng trung bình mỗi năm giảm 0,39 điểm 2011-2015.
Từ thực trạng trên, việc rà soát lại toàn bộ hệ thống chính sách tài chính trong lĩnh vực khoáng sản hiện hành bám sát bốn giải pháp đổi mới cơ chế chính sách tài chính trong lĩnh vực khai khoáng được nêu trong Nghị quyết 02; đồng thời xác định những bất cập, thiếu hụt nhằm khác phục và cải thiện chính sách trong thời gian tới là thực sự cần thiết.
Hoàn thiện quy định pháp luật
Trong bối cảnh các cơ quan Chính phủ đang rà soát tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 02, các chuyên gia thuộc Liên minh Khoáng sản đã thực hiện nghiên cứu “Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính trong hoạt động khoáng sản ở Việt Nam” nhằm đóng góp điều chỉnh, bổ sung và đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính trong hoạt động khoảng sản thời gian tới. Nghiên cứu tiến hành rà soát hệ thống chính sách tài chính đối với hoạt động khoáng sản hiện hành theo 4 giải pháp đổi mới cơ chế chính sách tài chính trong lĩnh vực khai khoáng được nêu trong Nghị quyết 02, qua đó đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính khoáng sản trong thời gian tới.
Trong quá trình triển khai, nhóm nghiên cứu đã tiếp cận và phân tích số liệu nguồn thu từ thuế tài nguyên, tiền cấp quyền KTKS, phí BVMT đối với KTKS; đồng thời tham khảo các nhận định về quản lý thuế tài nguyên, thu tiền cấp quyền KTKS, phí BVMT đối với KTKS trong báo cáo của các cơ quan thuế cấp Trung ương địa phương và một số cơ quan nhà nước liên quan trực tiếp đến quản lý tài nguyên khoáng sản. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng sử dụng kết quả của các đồng nghiệp đã thực hiện phỏng vấn các cơ quan quản lý thuế ở một số địa phương, phỏng vấn lãnh đạo, cán bộ tài chính kế toán một số doanh nghiệp khai khoáng.
Theo TS. Lê Ái Thụ, Hội Kinh tế địa chất Việt Nam, thành viên Liên minh khoáng sản: Kết quả nghiên cứu cho thấy chính sách về tài chính là công cụ quan trọng để nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tiễn, các quy định pháp luật về tài chính đối với hoạt động khoáng sản đã bộc lộ một số hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định trách nhiệm người nộp thuế, sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế tài nguyên và thuế suất thuế tài nguyên cũng như phương pháp tính tiền cấp quyền KTKS,... Một số điểm mâu thuẫn và quy định không rõ ràng trong các văn bản pháp luật nói trên cũng đã gây khó khăn cho công tác quản lý thuế tài nguyên và kiểm soát nạn khai thác trái phép tài nguyên tại các địa phương.
Từ đánh giá thực trạng, nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về tài chính trong lĩnh vực khoáng sản đối với 4 nhóm vấn đề: Thuế tài nguyên cần được sửa đổi, bổ sung cả về đối tượng nộp thuế, giá tính thuế, thuế suất cũng như định nghĩa, giải thích từ ngữ rõ ràng, minh bạch các thuật ngữ trong các văn bản pháp luật; tiền cấp quyền KTKS nên được quy định lại cả về công thức xác định và các yếu tố của công thức xác định cho đúng với bản chất khoản thu và phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính thống nhất của các quy định pháp luật; thuế BVMT cần được nghiên cứu điều chỉnh đối với một số sản phẩm khoáng sản, chẳng hạn như than; phí BVMT nên tập trung chủ yếu vào quy định pháp luật về hướng dẫn tỷ lệ phân chia nguồn thu cho các cấp chính quyền địa phương.
Ngoài những nội dung trên, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý thu các khoản thuế, phí đối với khoáng sản và công tác tổ chức thực hiện quản lý các khoản thu này. Các đề xuất đều nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập theo hướng thúc đẩy sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản cho mục đích phát triển kinh tế quốc gia, đảm bảo công bằng trong thực hiện nghĩa vụ tài chính, chống thất thu NSNN và nâng cao phúc lợi cho người dân ở những vùng KTKS.
PGS. TS. LÊ XUÂN TRƯỜNG
Học viện Hành chính Quốc gia
Trích: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 14 (Kỳ 2 tháng 7) năm 2023