
ảnh minh họa
Việc khai thác tài nguyên khoáng sản, đặc biệt khi ở quy mô công nghiệp, thường gắn liền với các vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng. Về mặt xã hội - môi trường, có thể gây ra những xáo trộn xã hội tại địa phương và dẫn tới những xung đột lợi ích lớn. Về mặt kinh tế, việc khai thác tài nguyên không được quản lý đúng đắn cả trong khâu sản xuất lẫn khâu phân phối lợi ích, có thể khiến địa phương hoặc một lãnh thổ bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong dài hạn mà những lợi ích ngắn hạn không bù đắp được. Ở cấp độ vĩ mô, một quốc gia phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên, trong khi thể chế có chất lượng thấp có thể dẫn tới việc quản lý chuỗi giá trị của toàn bộ quá trình khai thác kém hiệu quả và gây ra tình trạng giải công nghiệp hóa. Đây là hiện tượng ngành khai thác lấn át và triệt tiêu động lực của các ngành công nghiệp sản xuất mang tính sáng tạo, đi kèm với tình trạng vòng xoáy tham nhũng - chuyên quyền về thể chế do nhà nước lợi dụng nguồn thu có được nhờ khai thác tài nguyên. Từ đó, tạo ra khuynh hướng giảm động lực thực hiện trách nhiệm giải trình trước công chúng, cũng như không thực hiện đầy đủ trách nhiệm tài khoá đối với người nộp thuế.
Đóng góp vào GDP có xu hướng giảm
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) mới đây đã công bố kết quả nghiên cứu “Hướng tới một hệ thống quản trị tài nguyên tốt hơn - Cách tiếp cận kinh tế chính trị”. Kết quả cho thấy Việt Nam chỉ đáp ứng được 6/27 tiêu chí của quản trị tốt.
Theo các số liệu năm 2022, nước ta có 5.000 mỏ và điểm quặng (900 mỏ đang khai thác), thuộc 48 loại khoáng sản khác nhau như: bauxit, đất hiếm, than, apatit, đá hoa trắng, titan-zircon, sắt, đồng, chì kẽm, mangan, cromit, antimon, kim loại hiếm,… Số lượng doanh nghiệp trong ngành khai khoáng tăng nhanh chóng, năm 2019 là 3.804 doanh nghiệp, tăng gần 850 doanh nghiệp so với năm 2011. Trong đó doanh nghiệp tư nhân 3.700 (97,2%), doanh nghiệp nhà nước 62 (1,84%), doanh nghiệp FDI 30 (0,96%).
Đặc biệt trong số này, có 1.935 doanh nghiệp khai thác đá (50,87%); 873 doanh nghiệp khai thác cát sỏi (22,95%); 330 doanh nghiệp khai thác kim loại (8,68%); 181 doanh nghiệp khai thác than (4,76%), trong đó 60% là doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, doanh thu phần lớn đến từ ngành than (62,6%). Doanh thu từ doanh nghiệp khai thác đá đứng thứ hai (18,5%).
Cũng theo số liệu năm 2019, ngành khai khoáng đóng góp 1.491,2 tỷ đồng vào ngân sách nhà nước, chỉ chiếm 0,61% tổng thu ngân sách từ thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp ngành khai thác than là 788,4 tỷ đồng (52,9%); doanh nghiệp ngành khai thác đá 394,9 tỷ đồng (26,5%) và doanh nghiệp khai thác đất sét 6,3 tỷ đồng (0,4%).
Tổng lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp khai khoáng là 5.200 tỷ đồng. Doanh nghiệp khai thác đá có lợi nhuận cao nhất, 1.988,5 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có lợi nhuận 11 tỷ đồng. Doanh nghiệp khai thác than có lợi nhuận cao thứ hai, 1.860,5 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có lợi nhuận khoảng 5,64 tỷ đồng.
Về tổng giá trị và đóng góp vào GDP của ngành khai khoáng tại Việt Nam: giai đoạn 2005-2012 đóng góp 18,6 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 4,37% GDP) năm 2005, tăng lên hơn 77,5 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 5,14% GDP) năm 2012; giai đoạn 2012-2020 đóng góp có xu hướng giảm (73,1 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ 2,49% GDP năm 2020).
Số lượng lao động ngành khai khoáng tại Việt Nam giai đoạn 2011-2018 có xu hướng giảm, đặt ra bài toán về giải quyết việc làm đối với những lao động không còn làm việc trong ngành khai khoáng. Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu và ngay tại Việt Nam thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn. Năm 2018, tổng số lao động là 173 nghìn người, giảm 100 nghìn lao động so với 2011. Ngược lại, thu nhập bình quân có xu hướng tăng, gấp 2 lần, từ chưa đến 3 triệu đồng/tháng năm 2011 lên 6,7 triệu đồng/tháng năm 2018.
Nhiều bất cập trong quá trình quản trị
Cũng theo nghiên cứu của VESS, quá trình quản trị ngành công nghiệp khai thác tại Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập. Về thể chế, vẫn còn nhiều hoạt động khoáng sản chưa được quy định trong Luật Khoáng sản và chưa đồng bộ với các luật khác. Thêm vào đó, việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi thành còn chậm, hệ thống chính sách, luật pháp chưa thật sự quan tâm đến phát triển các hoạt động khoáng sản phía hạ nguồn. Sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan liên quan chưa tốt, điều này một phần do tình trạng thiếu nhân lực, đặc biệt là nhân lực ở cấp cơ sở,… Mặc dù các cơ quan quản lý đã tìm cách giám sát hoạt động khai thác của doanh nghiệp nhằm đảm bảo việc kê khai đúng và đủ, nhưng việc triển khai trên thực tế còn nhiều bất cập, gây phiền hà, tốn kém và khó khăn cho doanh nghiệp và trên thực tế doanh nghiệp không khó để có thể lách hay đưa ra các lý do để có thể không thực hiện các quy định này.
Đối thoại về quản trị trong khai thác khoáng sản
Ngoài ra, việc phân bổ và sử dụng nguồn thu từ hoạt động khai thác khoáng sản cũng chưa hợp lý; thiếu quy định trong phân bổ nguồn thu giữa các địa phương, đặc biệt là những địa phương bị ảnh hưởng trực tiếp bởi hoạt động khai khoáng (nơi có mỏ khai thác). Thậm chí, hiện chưa có cơ chế phân bổ để các địa phương nơi có mỏ khoáng sản được hưởng lợi nhiều hơn và trực tiếp từ hoạt động khai thác khoáng sản.
Theo PGS.TS Nguyễn Đức Thành - Giám đốc VESS , mỏ là tài nguyên của Nhà nước, nhưng người dân xung quanh chịu ảnh hưởng lớn nhất, chưa kể đến nhà ở và xã hội trong quá trình khai thác và sau quá trình khai thác, do đó hệ thống quản trị cần được thiết kế vững vàng hơn và nhà quản lý, người khai thác cần hiểu rõ về bản chất của tài nguyên khoáng sản thay vì chú trọng lợi ích kinh tế, để đảm bảo cho chi phí mà xã hội phải chịu ở mức thấp nhất, nhưng vẫn đảm bảo được nhu cầu tiêu dùng, khai thác. Đồng thời, cần có sự thiết chế, quản lý các mỏ tốt hơn và công khai minh bạch báo cáo của các dự án, để người dân, nhà nghiên cứu, nhà tổ chức xã hội đều được biết, nhằm mục đích cùng tham gia giám sát với Nhà nước, đồng thời giảm tải gánh nặng cho địa phương, tạo môi trường xã hội xung quanh mỏ được tốt hơn.
Đáng quan ngại, pháp luật Việt Nam hiện chưa có quy định về xử phạt khi cơ quan, địa phương không công khai, hoặc chậm công khai thông tin. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu nghiêm túc trong công khai hồ sơ xin cấp phép thăm dò khoáng sản. Hầu hết các tiêu chí liên quan đến cấp giấy phép khai thác theo các nguyên tắc trong khung quản trị tài nguyên thiên nhiên đều chưa đạt tiêu chuẩn.
Lâm Anh