
Thương mại bền vững: Bước tiến vững vàng của nông sản Việt Nam
Theo ông Vũ Đức Đam Quang, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, 5 năm trở lại đây, dù chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, biến động địa chính trị và gián đoạn chuỗi cung ứng, xuất khẩu nông - lâm - thủy sản (NLTS) Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định.
Từ năm 2020 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu NLTS liên tục tăng, đưa Việt Nam vào nhóm 15 quốc gia xuất khẩu NLTS hàng đầu thế giới, với thị trường trải rộng trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2024, xuất khẩu đạt kỷ lục 62,6 tỷ USD, thặng dư thương mại đạt 17,7 tỷ USD, trong đó 7 nhóm hàng vượt 3 tỷ USD và 11 nhóm hàng trên 1 tỷ USD.
Đằng sau những con số ấn tượng ấy là hiệu quả của 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết và triển khai trong thời gian qua. Nhờ đó, nông sản Việt đã tiếp cận được các thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, không chỉ về sản lượng mà còn về chất lượng và tiêu chuẩn bền vững.
Đáng chú ý, Việt Nam đang chủ động đáp ứng các yêu cầu mới của đối tác, như Quy định chống mất rừng và suy thoái rừng (EUDR) của EU, hay biện pháp kiểm soát thủy sản MMPA của Hoa Kỳ. Việc này không chỉ giúp đảm bảo duy trì xuất khẩu, mà còn tạo động lực để tái cấu trúc sản xuất nông nghiệp theo hướng minh bạch, có trách nhiệm và bền vững.
Để mở rộng không gian phát triển, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xúc tiến đàm phán 6 FTA mới, hướng tới các khu vực Trung Đông (Halal), Mỹ Latin, châu Phi, Trung Đông Âu và Trung Á, tận dụng cơ hội từ những thị trường đầy tiềm năng.
Chọn lọc FDI để phục vụ chuyển đổi xanh
Cùng với thương mại, ông Vũ Đức Đam Quang nhấn mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục là kênh hợp tác quan trọng thúc đẩy chuyển đổi xanh. Hiện, Việt Nam có hơn 500 dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, với tổng vốn gần 4 tỷ USD; nếu tính cả các dự án chế biến, dịch vụ liên quan thì con số đã vượt 20 tỷ USD - một trong những mức cao nhất trong khu vực. Sự hiện diện của các tập đoàn đa quốc gia lớn đã góp phần mang đến công nghệ tiên tiến, mô hình quản trị hiện đại, đồng thời giúp Việt Nam kết nối sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Trên nền tảng đó, Bộ đã cùng các đối tác xây dựng nhóm hợp tác công – tư (PPP) trong nhiều ngành hàng chủ lực như cà phê, lúa gạo, hồ tiêu, thủy sản, hướng tới liên kết chuỗi giá trị bền vững. Thông qua các nhóm PPP, doanh nghiệp đa quốc gia, doanh nghiệp Việt Nam, nông dân và hiệp hội ngành hàng cùng tham gia vào quá trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc, tuân thủ quy định môi trường và giảm phát thải.
Thực tiễn ngành cà phê cho thấy, khi áp dụng mô hình PPP, năng suất tăng trung bình 15 - 20%, chi phí giảm 10 - 15%, đồng thời hình thành được chuỗi cung ứng trách nhiệm - minh bạch - hiệu quả.
Không chỉ dừng lại ở mô hình liên kết, Bộ đang triển khai các sáng kiến mới như trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), gắn trách nhiệm doanh nghiệp với toàn bộ vòng đời sản phẩm từ thiết kế, sản xuất, tiêu dùng đến thu hồi, tái chế. Cách tiếp cận này không chỉ giúp giảm thiểu rác thải và ô nhiễm, mà còn tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm Việt trên các thị trường cao cấp.
Song song, các dự án trao đổi tín chỉ carbon trong nông nghiệp cũng đang mở ra một thị trường kinh tế xanh đầy tiềm năng. Việc giảm phát thải trong trồng lúa, chăn nuôi, trồng rừng không chỉ giúp Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu Net Zero 2050, mà còn tạo nguồn lực tài chính mới để tái đầu tư cho nông dân và cộng đồng địa phương.
Trong thời gian tới, Vụ Hợp tác quốc tế kiên định với phương châm “chọn lọc FDI để phục vụ chuyển đổi xanh”, ưu tiên những dự án có công nghệ cao, gắn kết với nông dân và doanh nghiệp địa phương. Đồng thời, Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm phát thải và tín chỉ carbon đang được hoàn thiện - công cụ kinh tế quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp bền vững.
ODA - Nguồn lực lâu dài cho quá trình chuyển đổi xanh
Vụ Hợp tác quốc tế khẳng định hợp tác phát triển thông qua nguồn vốn ODA tiếp tục là trụ cột hỗ trợ chiến lược trong nỗ lực chuyển đổi xanh của Việt Nam. Theo thống kê, 06 dự án ODA hiện nay có tổng giá trị 651 triệu USD, tập trung vào các lĩnh vực hiệu quả sử dụng nước, quản lý lũ lụt, phục hồi rừng ngập mặn, hiện đại hóa ngành lâm nghiệp và bảo tồn hệ sinh thái ven biển.
Ngoài ra, 09 dự án mới với tổng vốn 1,15 tỷ USD và 04 dự án đang chuẩn bị trị giá 544 triệu USD đang được xúc tiến. Đáng chú ý là Dự án hỗ trợ cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp - được xem là bước đi chiến lược để hiện thực hóa cam kết Net Zero 2050.
Cùng với đó, hơn 160 dự án viện trợ không hoàn lại, tổng vốn 356 triệu USD, đang được triển khai trong nhiều lĩnh vực từ nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản đến môi trường, biến đổi khí hậu và biển đảo. Các dự án này trực tiếp hỗ trợ hàng triệu nông dân và cộng đồng ven biển, giúp cải thiện sinh kế, tăng thu nhập và nâng cao năng lực thích ứng với thiên tai.
Nhìn lại, các dự án ODA không chỉ mang lại nguồn lực tài chính, mà còn góp phần chuyển giao tri thức, công nghệ và phương thức quản lý hiện đại, giúp nông nghiệp Việt Nam tiến gần hơn tới mô hình thông minh, tuần hoàn và phát thải thấp.
Ba trụ cột hợp tác: học thuật, chính sách và chuyên gia
Trong thời gian qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tích cực triển khai Nghị quyết 57 về thúc đẩy KHCN và ĐMST và Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, đẩy mạnh hợp tác quốc tế thúc đẩy về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Bộ đã mở rộng mạng lưới đối thoại chính sách, trao đổi học thuật, hợp tác nghiên cứu với nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, viện nghiên cứu và trường đại học.
Hàng trăm chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước đã cùng chung tay tìm lời giải cho những vấn đề cấp bách: từ quản lý nguồn nước sông Mekong, ứng phó thiên tai, đến phát triển nông nghiệp thông minh, giảm phát thải khí nhà kính. Với sự hỗ trợ của các chuyên gia quốc tế, Việt Nam đang trở thành tấm gương trên thế giới về phát triển bền vững, qua các sáng kiến về chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm minh bạch, trách nhiệm, bền vững, Sáng kiến giảm phát thải qua trồng rừng và sử dụng đất hiệu quả, các sáng kiến về ứng phó với BĐKH, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sịnh học, tái chế, giảm rác thải nhựa.
Với tinh thần chủ động - sáng tạo - hội nhập sâu rộng, nông nghiệp Việt Nam đang tiến từng bước vững chắc trên con đường xanh hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững, hướng tới mục tiêu trở thành đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường toàn cầu.