
Thực trạng khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản
Việc thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng trên cơ sở phù hợp với Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (thuộc quy hoạch ngành quốc gia về sử dụng tài nguyên theo quy định của Luật Quy hoạch) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1626/QĐ-TTg ngày 15/12/2023.
Trong đó, khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (Cát các loại trừ cát trắng silic, đất sét làm gạch, ngói và các loại sét, đá cát kết, đá quarzit; đá trầm tích các loại (trừ diatomit, bentonit, đá chứa keramzit), đá magma (trừ đá syenit nephelin, bazan dạng cột hoặc dạng bọt), đá biến chất (trừ đá phiến mica giàu vermiculit); đá phiến các loại; cuội, sỏi, sạn; đá vôi, sét vôi, đá hoa; đá dolomit,... đáp ứng yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Luật Khoáng sản) được phân cấp thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND cấp tỉnh. Việc thăm dò, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường trên cơ sở phù hợp với phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên thuộc Quy hoạch cấp tỉnh đã được phê duyệt.
Theo thống kê, tính đến tháng 12/2023, cả nước có khoảng gần 4.000 khu vực khoáng sản đang được hơn 3.300 tổ chức, cá nhân khai thác với gần 50 loại khoáng sản khác nhau trên phạm vi cả nước, tập trung vào các loại tài nguyên, khoáng sản làm vật liệu xây dựng và vật liệu xây dựng thông thường như: Đá, sét, cát, sỏi, than, đá vôi, đá sét làm nguyên liệu xi măng, đá hoa trắng, đá ốp lát…
Một số địa phương có nhiều doanh nghiệp tham gia hoạt động khoáng sản gồm: Quảng Ninh, Lào Cai, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Phú Thọ,... tuy nhiên, có địa phương không có hoạt động khoáng sản như Bạc Liêu hoặc có số lượng doanh nghiệp tham gia ít như: Sóc Trăng, Thái Bình, Nam Định, Cần Thơ, Đồng Tháp, TP. Hồ Chí Minh.
Trong số gần 4.000 khu vực khoáng sản nêu trên, khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường chiếm gần 3.000 khu vực với tổng trữ lượng được phê duyệt năm 2023 là gần 500 triệu m3; sản lượng khai thác vào khoảng 143 triệu m3. Đối với tài nguyên, khoáng sản làm vật liệu, hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản này được triển khai thực hiện tại 44/63 tỉnh, thành phố trong cả nước với khoảng 1.720 mỏ, điểm mỏ theo các quy mô khác nhau. Tính đến ngày 31/12/2023, đã có 19 Giấy phép thăm dò khoáng sản được cấp và 199 giấy phép khai thác khoáng sản theo các loại hình khoáng sản do Bộ TN&MT (các cơ quan tương đương) cấp phép đang còn hiệu lực.
Khoáng sản quý hiếm (kim loại quý: Vàng, bạc, đá quý, đất hiếm, bauxit, titan,...) thuộc thẩm quyền cấp phép hoạt động khoáng sản của Bộ TN&MT theo quy định tại Điều 82 Luật khoáng sản. Việc thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản trên cơ sở phù hợp với Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 866/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 (thuộc quy hoạch ngành quốc gia về sử dụng tài nguyên theo quy định của Luật Quy hoạch).
Giải pháp khắc phục trong thời gian tới
Nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng. Bộ TN&MT đề xuất hoàn thiện và trình Quốc hội xem xét, ban hành Luật Địa chất và Khoáng sản trên cơ sở kết quả tổng kết, đánh giá việc thực hiện Luật Khoáng sản năm 2010 để bổ sung, hoàn thiện nội dung về công tác điều tra cơ bản địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng. Trong đó, tập trung, hoàn thiện theo hướng thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị và các chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực địa chất, khoáng sản. Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là các Luật có liên quan đến lĩnh vực địa chất, khoáng sản; các điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Ngoài ra, khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập của Luật Khoáng sản hiện hành đã được tổng kết, đánh giá. Trong đó, bảo đảm quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả khoáng sản, tính minh bạch trong việc kiểm soát hoạt động khoáng sản và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững của ngành địa chất, khoáng sản. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương để địa phương chủ động trong việc phát triển KT-XH, phù hợp với thực tế gắn với trách nhiệm thẩm quyền được giao; đồng thời thiết lập công cụ kiểm soát quyền lực, giám sát thực hiện; góp phần xử lý được những tồn tại, tiêu cực trong lĩnh vực địa chất, khoáng sản.
Đồng thời, đẩy mạnh điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản tại các vùng có triển vọng như Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên và ven biển, đặc biệt khoáng sản phân bố ở phần sâu; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan trong việc cấp phép hoạt động khoáng sản theo quy hoạch, đảm bảo dự án khai thác, chế biến (tuyển) sử dụng công nghệ tiên tiến, an toàn lao động, bảo vệ môi trường và hiệu quả KT-XH, đảm bảo nguyên liệu ổn định, lâu dài cho dự án chế biến sâu.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về tài nguyên địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng theo hướng thống nhất quản lý nhà nước về địa chất, khoáng sản; quản lý tập trung, thống nhất cơ sở dữ liệu; hoàn thiện mô hình quản lý nhà nước về địa chất, khoáng sản; áp dụng mô hình quản trị tài nguyên khoáng sản minh bạch, hiệu quả của thế giới; ưu tiên cấp phép dự án khai thác khoáng sản cho tổ chức doanh nghiệp có năng lực, kinh nghiệm, sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại gắn với địa chỉ sử dụng khoáng sản; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, xem xét trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân để xảy ra sai phạm trong quản lý, sử dụng khoáng sản và các hoạt động liên quan đến địa chất khoáng sản, công nghiệp khai khoáng.
Cùng với đó, tăng cường phối hợp giữa Bộ TN&MT, Bộ Công Thương và UBND cấp tỉnh trong việc cấp phép hoạt động khoáng sản, cung cấp thông tin về tình hình khai thác, chế biến sau cấp phép. Khi cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản, cơ quan cấp phép có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý quy hoạch để xác định về tình hình cung cầu của thị trường; tăng cường công tác kiểm tra, bảo vệ ranh giới mỏ và các điểm mỏ mới được phát hiện và khu vực dự trữ tài nguyên khoáng sản quốc gia.
Khuyến khích đầu tư, đổi mới đồng bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường cho công tác điều tra cơ bản tài nguyên địa chất, thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản; khuyến khích việc tích tụ tài nguyên từ các mỏ/điểm mỏ quy mô nhỏ thành các mỏ/cụm mỏ quy mô đủ lớn để đầu tư đồng bộ từ thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, áp dụng công nghệ hiện đại đảm an toàn lao động và thân thiện môi trường. Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách để: (i) Chấm dứt hoạt động các dự án khai thác, chế biến khoáng sản sử dụng công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường hoặc dự án tạm dừng hoặc dừng hoạt động nhưng doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ cải tạo phục hồi môi trường khi kết thúc khai thác (đóng cửa mỏ); khắc phục tình trạng khai thác lãng phí gây thất thoát tài nguyên khoáng sản.
Duy trì hoạt động hiệu quả các dự án khai thác, chế biến bôxít - alumin - nhôm, đất hiếm,... trở thành ngành công nghiệp chủ đạo, phát triển bền vững tương xứng với quy mô khoáng sản; xây dựng cơ chế để khuyến khích, tiến tới bắt buộc các dự án đầu tư khai thác, chế biến khoáng sản sử dụng công nghệ, thiết bị khai thác, chế biến tiên tiến, hiện đại theo mô hình kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính đáp ứng mục tiêu tăng trưởng xanh.
Đẩy mạnh hợp tác khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ trong thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản, bảo vệ môi trường, an toàn lao động và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, quản trị tài nguyên khoáng sản, quan trắc, dự báo, quản trị môi trường, điều khiển tự động nhằm nâng cao hiệu quả, giảm tổn thất tài nguyên, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và bảo đảm môi trường.
HƯƠNG TRÀ
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2024