
Cục trưởng Cục Tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh
Phóng viên: Những ngày gần đây, các đại biểu Quốc hội rất quan tâm đến việc tuần hoàn, tái sử dụng nước thông qua cách tiếp cận về kinh tế tuần hoàn nhằm quản lý, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. Thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường có những giải pháp gì nhằm bảo vệ an ninh nguồn nước ở Việt Nam, thưa ông?
Ông Châu Trần Vĩnh:
Vấn đề sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tái sử dụng nước, sử dụng nước tuần hoàn được nhiều Đại biểu Quốc hội cũng như nhiều tổ chức quốc tế quan tâm. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, giá trị sử dụng nước của Việt Nam rất thấp, chỉ tạo ra 2,37 USD/m3 nước, bằng khoảng 1/10 so với mức trung bình toàn cầu là 19,42 USD. Tỷ lệ thất thoát nước trong cấp nước sinh hoạt đô thị, nông thôn còn cao (20-25%); tỷ lệ công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn hoạt động không hiệu quả còn rất lớn (30%). Hiệu suất sử dụng nước cho nông nghiệp của Việt Nam ở mức thấp, chỉ đạt 0,2 USD/m3; nước sử dụng trong nông nghiệp chiếm 81% tổng lượng nước khai thác sử dụng của Việt Nam nhưng chỉ tạo ra 17-18% GDP. Do đó, khi xây dựng dự thảo Luật TNN (sửa đổi), chúng tôi cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và tính toán kỹ lưỡng việc tiếp thu nội dung gì, tiếp thu như thế nào để vừa bảo đảm tính khả thi vừa phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội ở Việt Nam góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia.
Về vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước, theo tôi, chúng ta phải thực hiện tổng hợp, đồng bộ nhiều giải pháp với sự vào cuộc quyết liệt của nhiều bộ, ngành như đã được Bộ Chính trị nêu tại Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Với vai trò là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý TNN, Cục Quản lý TNN đã và sẽ tiếp tục tham mưu cho Bộ TN&MT, thực hiện các giải pháp như:
Một là, xây dựng dự thảo Luật TNN (sửa đổi) theo hướng bổ sung các quy định nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Nội dung này được thể hiện xuyên suốt trong các chương của dự thảo Luật, trong đó tôi cho rằng cần phải quan tâm để nghiên cứu, sửa đổi những quy định cụ thể như: Nguyên tắc, chính sách, hoạt động điều tra cơ bản TNN, quản lý các thông tin, cơ sở dữ liệu về TNN, quản lý nhu cầu khai thác, sử dụng nước, quy hoạch về TNN, quản lý việc điều hòa, phân phối nguồn nước cho các mục đích sử dụng; bảo đảm chất lượng cho các mục đích sử dụng như: Chức năng nguồn nước; hành lang bảo vệ nguồn nước, bảo đảm chất lượng nước cho nước sinh hoạt,…; bảo đảm hệ sinh thái và môi trường như: dòng chảy tối thiểu trên các sông, đoạn sông, hồ, ngưỡng khai thác nước dưới đất và giảm thiểu tác hại do nước gây ra. Đặc biệt, cần quy định cụ thể về điều hòa, phân phối TNN, nhất là trong điều kiện hạn hán, thiếu nước.
Hai là, triển khai thực hiện các quy hoạch về TNN đặc biệt là quy hoạch TNN quốc gia, quy hoạch tổng hợp LVS Cửu Long; điều tra, đánh giá, bảo vệ TNN; quan trắc, giám sát TNN để kịp thời ứng phó khi sự cố xảy ra. Thực hiện các đề án, dự án nhằm phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm.
Ba là, theo dõi chặt chẽ, cập nhật liên tục các bản tin cảnh báo, dự báo diễn biến tình hình khí tượng, thủy văn, hạn hán, thiếu nước xâm nhập mặn để chủ động trong triển khai các kế hoạch sản xuất, thực hiện các biện pháp phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn trong đó ưu tiên cao nhất bảo đảm nguồn nước sinh hoạt cho nhân dân.
Bốn là, chỉ đạo việc nghiên cứu, sử dụng hiệu quả các tài liệu, kết quả của chương trình điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất, số liệu quan trắc, dự báo và cảnh báo TNN đã được Bộ TN&MT chuyển giao cho các địa phương để thực hiện các giải pháp phòng, chống hạn hán thiếu nước, xâm nhập mặn trước mắt cũng như lâu dài, đặc biệt là bảo đảm cấp nước sinh hoạt cho nhân dân những vùng đang xảy ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng.
Năm là, tăng cường chia sẻ thông tin, dữ liệu về TNN; xây dựng cơ sở dữ liệu tích hợp dùng chung cho cả nước và cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa trung ương và địa phương, các ngành; chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ TNN của người dân và doanh nghiệp.
Phóng viên: Quan điểm xây dựng Luật TNN (sửa đổi) nhằm thể chế hóa quan điểm TNN là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Vấn đề thu hút nguồn lực xã hội, huy động sự tham gia, giám sát của cộng đồng trong việc bảo vệ nguồn nước cần được thể hiện cụ thể thế nào, thưa ông?
Ông Châu Trần Vĩnh: Khi xây dựng dự thảo Luật TNN (sửa đổi), Ban soạn thảo dựa trên các quan điểm xây dựng Luật, trong đó, có quan điểm TNN là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Quan điểm này đã được thể chế hóa trong toàn bộ dự thảo Luật từ nguyên tắc, chính sách đến các hoạt động điều tra cơ bản, quy hoạch, bảo vệ, khai thác TNN,… trong đó, tập trung vào một số điểm như: Bổ sung các quy định nhằm chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế, thông qua các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác TNN; bổ sung các quy định nhằm kiểm soát hoạt động khai thác, sử dụng TNN, nâng cao ý thức bảo vệ TNN, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước.
Cụ thể, bổ sung các quy định nhằm huy động sự tham gia, giám sát của cộng đồng trong bảo vệ nguồn nước như cho ý kiến về các dự án, hoạt động có khai thác, sử dụng nước với quy mô lớn, giám sát thông qua hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,… bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hóa giảm nguồn lực đầu tư của nhà nước. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác TNN, tiền cấp quyền khai thác TNN nhằm tính đúng, tính đủ giá trị TNN.
Ngoài ra, dự thảo Luật cũng bổ sung một điều mới về “tích hợp hoạt động TNN”, nhằm tính toán giá trị của nước trong các hoạt động phát triển KT-XH. Việc tính toán đầy đủ giá trị của nước là một trong những căn cứ để cơ quan có thẩm quyển xem xét, quyết định việc điều hòa, phân bổ và thực hiện các giải pháp bảo vệ TNN trên các LVS.
Phóng viên: Việc xem xét kỹ lưỡng thống nhất giữa quy hoạch TNN cấp tỉnh với quy hoạch TNN quốc gia hoặc có sự điều chỉnh cho phù hợp là rất cần thiết. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào, thưa ông?
Ông Châu Trần Vĩnh:
Luật TNN năm 2012 đã khẳng định vai trò quan trọng của quy hoạch TNN. Theo đó, quy hoạch TNN là một trong những cơ sở cho việc lập các quy hoạch ngành quốc gia có khai thác, sử dụng nước, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.
Trên cơ sở, đó Bộ TN&MT đã xây dựng quy hoạch TNN trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Quy hoạch TNN là định hướng tổng thể cấp quốc gia trong việc quản lý, điều hòa, phân phối, khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển TNN, phòng, chống tác hại do nước gây ra, đồng thời cũng định hướng tổng thể cho 06 vùng phát triển KT-XH (Trung du và miền núi phía Bắc; Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; Tây Nguyên; Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long), 13 LVS lớn (Bằng Giang - Kỳ Cùng, Hồng - Thái Bình, Mã, Cả, Hương, Vũ Gia - Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn - Hà Thanh, Ba, Sê San, Srêpok, Đồng Nai, Cửu Long), nhóm LVS ven biển và một số đảo trên lãnh thổ Việt Nam triển khai thực hiện trong quá trình lập quy hoạch.
Quy hoạch TNN hướng tới quản lý, sử dụng, phát triển bền vững, tổng hợp, thống nhất theo LVS, liên vùng, liên tỉnh; mọi nhu cầu sử dụng nước cho phát triển KT-XH phải phù hợp với chức năng và khả năng đáp ứng của nguồn nước, nhằm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, công bằng, hợp lý, đa mục tiêu, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái thủy sinh, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia. Đồng thời, hướng tới bảo vệ số lượng và chất lượng, kết hợp hài hòa giữa bảo vệ với duy trì, phát triển nguồn sinh thủy, nâng cao khả năng tích trữ nước, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; hợp tác, chia sẻ công bằng và hợp lý TNN xuyên biên giới. Phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra với phương châm phòng ngừa là chính, giảm thiểu tối đa tổn thất.
Do đó, tôi cho rằng cần xem xét kỹ lưỡng thống nhất giữa nội dung về TNN trong quy hoạch tỉnh với quy hoạch TNN; trường hợp quy hoạch tỉnh chưa phù hợp thì cần điều chỉnh đề phù hợp với quy hoạch TNN.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!
Thanh Tâm (thực hiện)
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 17+18 (Kỳ 1+2 tháng 9) năm 2023