
Ảnh minh họa
Hội tụ và phát huy lợi thế
Khánh Hòa là tỉnh ven biển ở khu vực Nam Trung Bộ, có vị trí quan trọng chiến lược phát triển KT-XH cũng như QP-AN với cả nước. Biển, đảo Khánh Hòa “sơn thủy” hữu tình, kỳ ảo, hiếm gặp, cùng nguồn tài nguyên biển phong phú, đa dạng là những lợi thế vượt trội, tạo tiền đề cho địa phương phát triển nền kinh tế biển (KTB) toàn diện, xanh và bền vững. Trong đó, vùng ven biển với các vịnh và các đảo sát bờ trở thành “động lực phát triển” đối với không gian KTB và ảnh hưởng lan tỏa sâu rộng vào không gian “kinh tế đất liền” của tỉnh, góp phần quan trọng thúc đẩy liên kết vùng cả trong nước và quốc tế. Vùng ven biển này cũng là “bàn đạp” và hậu phương cho các hoạt động biển xa, gắn KTB với bảo đảm QP-AN, góp phần thực hiện “chủ quyền dân sự” của Việt Nam trên Biển Đông. Do vậy, nội hàm phát triển KTB Khánh Hòa còn vượt khỏi tầm của tỉnh. Nghĩa là Khánh Hòa phát triển không chỉ riêng cho tỉnh mà còn vì các tỉnh lân cận, và thực hiện sứ mệnh chính trị mà Đảng và Nhà nước giao, cũng như để khẳng định vị thế của Trường Sa trong Biển Đông và trong cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mở và tự do.
Phát huy lợi thế đó, Khánh Hòa đang tiếp tục triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII (nhiệm kỳ 2020-2025), Nghị quyết số 36 về Chiến lược phát triển bền vững KTB đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Theo đó, Khánh Hòa phấn đấu trở thành trung tâm KTB, trung tâm du lịch, dịch vụ lớn của cả nước vào năm 2025; phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, trở thành đô thị trực thuộc trung ương vào năm 2030; và đến năm 2045 trở thành địa phương phát triển hiện đại, thu nhập bình quân của người dân thuộc nhóm các tỉnh, thành phố cao nhất cả nước. Khánh Hòa đã đặt mục tiêu Vân Phong trở thành một trong những trung tâm KTB hiện đại, trung tâm công nghiệp gắn với cảng biển, với các ngành chủ lực về năng lượng, đóng tàu, dịch vụ vận tải biển,... của khu vực và cả nước. Đây là hướng đi đúng, mang tầm chiến lược, thể hiện khát vọng phát triển của Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
Còn nhiều nút thắt, rào cản
Một trong những nút thắt quan trọng nhất vẫn là hành lang pháp lý, đó là việc quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ vẫn mang tính đơn ngành và theo từng địa phương, chưa có cơ chế quản lý thống nhất mang tính điều phối giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành của tỉnh và các huyện, thị xã, thành phố ven biển. Cụ thể như:
Công tác kiểm soát ONMT biển có nguồn gốc từ đất liền còn gặp khó khăn do sự chồng chéo giữa các quy định của Luật BVMT năm 2020 Luật TN, MT B&HĐ. Một số quy hoạch, chương trình làm cơ sở để triển khai công tác quản lý trong lĩnh vực B&HĐ chưa được phê duyệt, như: Quy hoạch không gian biển; chương trình trọng điểm điều tra cơ bản TN,MT B&HĐ; chương trình quản lý tổng hợp (QLTH) tài nguyên vùng bờ.
Công tác giao khu vực biển cho các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng theo quy định của pháp luật về biển mới được thực hiện trong thời gian gần đây dẫn đến nhiều dự án có sử dụng đất ven biển không thực hiện sự công nhận khu vực biển theo quy định tại Nghị định số 51/2014/NĐ-CP. Nhiều dự án lấn biển và diện tích đất hình thành đã nằm ngoài đường mép nước biển trung bình nhiều năm. Luật Thủy sản số 18/2017/QH14 quy định việc giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản phải căn cứ quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch tỉnh và quy định của pháp luật về biển, bảo đảm QP-AN nhưng hiện nay việc giao khu vực biển sử dụng mục đích nuôi trồng thủy sản lại không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 51/2014/NĐ-CP gây khó khăn cho các dự án nuôi trồng thủy sản của người dân và doanh nghiệp cũng như trong công tác QLNN ở địa phương.
Chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ chung giữa các văn bản QPPL: Luật TN, MT B&HĐ sử dụng thuật ngữ “nhận chìm ở biển”; nhưng theo khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 198/2015/TTLT-BTC-BTNMT quy định phương pháp tính, phương thức thu, chế độ quản lý và sử dụng tiền sử dụng khu vực biển lại sử dụng thuật ngữ “Sử dụng khu vực biển để đổ thải bùn nạo vét”.
Thông tư liên tịch số 198/2015/TTLT-BTC-BTNMT quy định “các hoạt động lấn biển” thuộc nhóm các hoạt động sử dụng biển phải nộp tiền sử dụng khu vực biển nhưng hiện chưa có các quy định pháp luật cụ thể đối với hoạt động lấn biển nhằm hạn chế tình trạng san lấp, lấn biển để làm các khu du lịch, khu đô thị, nhà máy, khu công nghiệp,… nhất là tại các vùng cần phải bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn hệ sinh thái và sinh vật biển; chưa có sự phân định rõ ràng giữa hoạt động lấn biển và hoạt động nhận chìm ở biển.
Việc chưa có quy định xử lý các hành vi vi phạm Luật Biển Việt Nam và Luật TN, MT B&HĐ, nhất là các hành vi không công nhận khu vực biển, gây ONMT biển, lấn biển, nhận chìm ở biển không có giấy phép,… đã dẫn đến tình trạng “nhờn” Luật.
Chương trình QLTH TN, MT B&HĐ và thực thi pháp luật quản lý về TN, MT B&HĐ liên quan đến nhiều bộ, ngành nhưng gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong công tác phối kết hợp, trao đổi thông tin, dữ liệu của các cấp chính quyền, các cơ quan liên quan cũng như việc phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các ngành, cơ quan liên quan đến biển còn nhiều bất cập.
Về kinh phí, chưa có quy định về một nguồn ngân sách cụ thể cho các hoạt động thực thi pháp luật về B&HĐ. Vì vậy, rất nhiều quy định của Luật TN, MT B&HĐ chưa được thực hiện vì thiếu kinh phí do hạn chế về ngân sách trong khi đó ngân sách trung ương không đủ để hỗ trợ cho địa phương.
Nguồn nhân lực, chưa có cán bộ, công chức chuyên trách công tác thông tin phổ biến, tuyên truyền các văn bản QPPL về lĩnh vực B&HĐ; phương pháp tuyên truyền lặp đi lặp lại nên hiệu quả chưa cao; sự tham gia của cộng đồng trong công tác BVMT biển, đảo còn mang tính hình thức, phong trào, chưa tạo được thói quen. Nguồn nhân lực chuyên trách công tác ứng phó sự cố tràn dầu tại các cơ quan quản lý và các cơ sở còn hạn chế về năng lực chuyên môn, kinh nghiệm kiểm soát và ứng phó sự cố tràn dầu. Cán bộ, công chức chuyên trách lĩnh vực B&HĐ chưa có nhiều kinh nghiệm trong thẩm định giao khu vực biển cũng như sử dụng hệ thống kỹ thuật hỗ trợ công tác QLNN về giao khu vực biển.
Giải pháp chủ động
Khánh Hòa có lợi thế phát triển bền vững các ngành KTB then chốt, truyền thống và một số ngành mới, như: Kinh tế du lịch biển, kinh tế hàng hải - cảng biển, kinh tế thủy sản (khai thác và nuôi trồng thủy sản ven biển, nuôi biển và nghề cá giải trí), kinh tế đô thị biển, kinh tế đảo, năng lượng biển tái tạo, dầu khí, dược liệu biển, KHCN biển đổi mới sáng tạo và các lĩnh vực dịch vụ biển (chế biến thủy sản, sản xuất giống thủy sản, dịch vụ logistics, dịch vụ cảng biển, dịch vụ du lịch,...). Tuy nhiên, phát triển các ngành, lĩnh vực KTB luôn có tính cạnh tranh, nên giải pháp chủ động và bao trùm là cần phân bổ hợp lý các phân vùng không gian biển, đảo và vùng ven biển, phù hợp với quy hoạch không gian biển quốc gia nhằm giảm thiểu các mâu thuẫn lợi ích và xung đột không gian sử dụng trong cùng một vùng biển. Không nên “đồng nhất hóa” việc sử dụng các vũng vịnh ven bờ để tránh phát triển ngành này lại triệt tiêu tiềm năng phát triển ngành khác vì chúng khác nhau về chức năng, lợi thế so sánh và tính vượt trội. Ngoài ra, cần thực hiện tốt phương thức quản lý tổng hợp biển và vùng ven biển trên cơ sở phối hợp liên ngành, liên vùng, liên cơ quan và tích hợp các vấn đề quản lý biển, đảo với các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, trong đó có Mục tiêu 14 về biển và Mục tiêu 6 về lưu vực sông để kiểm soát hiệu quả các tác động từ đất liền đối với biển. Ưu tiên tăng cường và mở rộng diện tích bảo tồn biển gắn với phát triển các ngành kinh tế dựa vào các giá trị bảo tồn và hài hòa lợi ích của các bên liên quan và người dân trong các vũng vịnh ven bờ, trên một số đảo lớn ven bờ (như Hòn Tre,...) và ở huyện đảo Trường Sa. KHCN, đổi mới sáng tạo và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao là giải pháp đột phá để phát triển bền vững KTB. Khánh Hòa cần cụ thể hóa, hiện thực hóa để thực sự trở thành trung tâm quốc gia về phát triển và chuyển giao công nghệ đại dương tiên tiến, tạo cơ hội để quy tụ đội ngũ cán bộ KHCN trên địa bàn tỉnh, ở Việt Nam và thu hút các nhà khoa học, chuyên gia giỏi quốc tế đến làm việc tại Khánh Hòa,...
Để tạo ra sự đột phá cho phát triển bền vững kinh tế biển, Khánh Hòa cần cụ thể hóa các bài học kinh nghiệm quốc tế và chủ trương, giải pháp lớn của Đảng và Chính phủ, địa phương cần sử dụng hợp lý vùng ven biển, các đảo và các thủy vực ven bờ (đầm, vũng, vịnh) phù hợp với bản chất tự nhiên và thế mạnh của từng loại hình. Bởi phát triển KTB hiệu quả và bền vững gắn với bảo đảm QP-AN trên biển không chỉ vì chiến lược phát triển riêng của Khánh Hòa mà còn tạo động lực phát triển và thúc đẩy liên kết vùng, cũng như vì lợi ích toàn cục của quốc gia.
Bên cạnh đó, Khánh Hòa nên chủ động phát triển thêm một số ngành năng lượng mới, chú ý là phát triển điện gió, năng lượng mặt trời trên biển, đảo phát triển ngành nghề chế tạo thiết bị phục vụ công nghiệp, năng lượng tái tạo, phát triển hệ thống đô thị biển, dược liệu biển, kinh tế dựa vào bảo tồn biển du lịch sinh thái và nghề cá giải trí, nuôi biển bền vững bao gồm đô thị các chuỗi đô thị ven biển và đô thị đảo, thực hiện những chương trình KHCN và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển KTB bền vững của tỉnh. Nếu có thể, Khánh Hòa chủ động đi đầu trong việc thành lập Trung tâm quốc tế về công nghệ đại dương và đổi mới sáng tạo, vì trong Nghị quyết số 36 về chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 đã đề cập, nhưng chưa địa phương nào triển khai được. Để làm được như vậy, Khánh Hòa rất cần “lực kéo” từ các doanh nghiệp, sự chung tay của người dân và đặc biệt là sự chỉ đạo của Trung ương thông qua các cơ chế, chính sách mới, đặc thù cho địa phương.
Ngô Thu Hiếu