Kinh nghiệm thế giới và bài học tham khảo cho Việt Nam trong phân cấp quản lý tài nguyên khoáng sản

Thứ ba, 14/11/2023, 14:26 (GMT+7)
logo Tài nguyên khoáng sản là đầu vào của ngành công nghiệp, là tài nguyên không thể thiếu trong phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, tài nguyên khoáng sản thuộc sở hữu quốc gia, là tài sản của toàn dân, do Nhà nước đại diện làm chủ sở hữu. Chính vì vậy, để quản lý nguồn tài nguyên khoáng sản một cách hiệu quả, việc phân cấp quản lý trên cơ sở quy định rõ trách nhiệm gắn với thẩm quyền của từng chủ thể quản lý là yêu cầu tất yếu.

Phân cấp quản lý tài nguyên khoáng sản tại một số quốc gia và Việt Nam

Việc tiến hành phân cấp quản lý tài nguyên khoáng sản (TNKS) được coi là giải pháp tốt và phù hợp trong lĩnh vực quản lý TNKS. Hiện nay, 60 quốc gia trên thế giới đã tiến hành phân cấp TNKS chuyển giao cho địa phương quản lý. Đây là những nước vận dụng hiệu quả việc phân cấp quản lý TNKS để lại nhiều bài học kinh nghiệm tốt trong quản lý TNKS.

Kinh nghiệm thế giới và bài học tham khảo cho Việt Nam trong phân cấp quản lý tài nguyên khoáng sản

Tại Indonesia, việc phân cấp quản lý khoáng sản liên quan đến các vấn đề phân bổ lợi ích từ tài nguyên, xung đột giữa các nhóm cộng đồng, sự phát triển vùng và giữa các vùng khác nhau. Việc phân cấp này đã cải thiện được tình hình quản lý tài nguyên. Năm 2004, ở Indonesia chỉ có 350 giấy phép được cấp, đến năm 2013, số giấy phép khoáng sản đã tăng lên 10.092, nhưng trong đó chỉ có 6.042 giấy phép đăng ký được công nhận tuân thủ đúng các thủ tục được quy định. Điều này là do hệ thống quản lý TNKS của Indonesia đã có nhiều thay đổi từ quy định việc KTKS phải được thực hiện qua các hợp đồng thầu (CoW) bắt đầu từ năm 1967 cho đến những năm cuối Thế kỷ XX, sau đó các quy định cấp giấy phép hoạt động khoáng sản được quy định cụ thể trong Luật Khoáng sản của Indonesia ra đời năm 2009.

Tại Philippines, việc quản lý TNKS được thực hiện theo Hiến pháp Philippine năm 1997 (Đạo luật 1997- IPRA) và FPIC (sự đồng thuận dựa trên nguyên tắc tự nguyện, phải được thông báo trước và cung cấp thông tin đầy đủ), giúp bảo vệ quyền sở hữu vùng đất đai chứa khoáng sản của người bản địa, cho phép cộng đồng từ chối bất kể dự án KTKS nào gây ảnh hưởng tiêu cực đến cộng đồng. FPIC trong luật pháp của Philippines được xem như một công cụ hữu hiệu, đề cao vai trò quản lý của cộng đồng bản địa vào quá trình ra quyết định khai thác tài nguyên. Khi người bản địa không đồng ý nhượng lại quyền sở hữu đất đai của mình trong phạm vi mỏ khoáng sản thì các doanh nghiệp KTKS không được sử dụng phần đất đai đó. Thực hiện tham vấn, thông báo trước và đồng thuận (FPIC) là giải pháp nhằm hạn chế xung đột trong quản lý khai thác TNKS ở Philippine.

Ở Việt Nam, theo Điều 80, 81, 82, 83 của Luật Khoáng sản năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), quy định việc phân cấp quản lý khoáng sản của Việt Nam: Chính phủ thống nhất QLNN về khoáng sản; Bộ TN&MT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về khoáng sản trong phạm vi cả nước; ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã quản lý trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Việc quản lý TNKS được phân cấp khá mạnh mẽ cho các địa phương, làm cho hoạt động KTKS gia tăng nhanh chóng, góp phần tăng thu cho ngân sách và phát triển kinh tế, bảo vệ TN&MT của địa phương nói riêng và của quốc gia nói chung,... Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 38/CT-TTg, ngày 29/9/2020, “Về việc tiếp tục tăng cường công tác QLNN đối với các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng và xuất khẩu khoáng sản”. Theo đó, quản lý TNKS được phân cấp quản lý: Cấp Trung ương giữ thẩm quyền cấp phép đối với những loại khoáng sản có giá trị cao, các loại khoáng sản có tính định hướng chiến lược; cấp tỉnh, thành phố quản lý, cấp phép một số loại hình khoáng sản chủ yếu phục vụ cho địa phương, xây dựng kết cấu hạ tầng, như vật liệu xây dựng thông thường, than bùn và tận thu một vài khoáng sản phân tán nhỏ lẻ.

Tuy nhiên, việc phân cấp QLNN về TNKS tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập bởi một số lý do. Thứ nhất, do công tác điều tra cơ bản, tìm kiếm thăm dò, đánh giá tiềm năng khoáng sản bị hạn chế, gặp nhiều rủi ro. Thứ hai, do việc đánh giá kinh tế mỏ khoáng sản không được thực hiện tố, dẫn tới mỏ có tiềm năng lớn thì chưa xác định được tính khả thi của dự án khai thác, ngược lại, mỏ khoáng sản có giá trị nhỏ thì chưa có phương án thu hồi hoặc phương án thu hồi không hiệu quả. Thứ ba, do trình độ, năng lực cán bộ làm công tác quản lý TNKS ở nhiều nơi còn hạn chế; gặp nhiều khó khăn, bất cập liên quan tới khai thác TNKS,... Nếu việc phân cấp quản lý TNKS được thực hiện một cách bài bản, phù hợp với từng địa phương sẽ phát huy được sự chủ động, sáng tạo trong việc quản lý tốt TNKS trên từng địa bàn, góp phần quản lý tốt TNKS ở Việt Nam.

Giải pháp quản lý tài nguyên khoáng sản hiệu quả

Thứ nhất, giảm thiểu ảnh hưởng môi trường do khai thác khoáng sản (KTKS): Nhiều địa phương đã đề xuất giải pháp, thực thi tốt trách nhiệm quản lý môi trường sinh thái khi có các doanh nghiệp KTKS hoạt động. Ví dụ, dự án Đầu tư xây dựng công trình mỏ titan sa khoáng Nam Đề Gi, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Theo báo cáo đánh giá tác động môi trường, công ty KTKS đã thực hiện nhiều biện pháp giảm thiểu tác động của môi trường ở khu vực khai thác quặng titan, như triển khai công tác trồng rừng (cây phi lao) trên 71,3ha, bảo đảm tỷ lệ cây sống trên 91%, với mật độ cây trồng 2.000 cây/ha. Đánh giá tác động môi trường của khu vực thực hiện dự án khai thác titan trước, trong và sau khi kết thúc khai thác được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Công ty KTKS cũng thực hiện việc ký quỹ phục hồi môi trường, được gửi vào tài khoản dưới sự quản lý của Sở TN&MT tỉnh Bình Định.

Thứ hai, thu phí cải tạo đường giao thông từ các doanh nghiệp KTKS: Trong quá trình KTKS, các doanh nghiệp phải vận chuyển khoáng sản từ nơi khai thác đến nơi chế biến, tiêu thụ. Phương tiện sử dụng vận chuyển quặng thường là ô-tô có tải trọng lớn, thậm chí siêu tải từ 70 - 80 tấn. Việc thu phí các phương tiện vận tải quặng là sáng kiến đã đươc thực thi ở tỉnh Lào Cai. Tỉnh Lào Cai đã có sáng kiến thu phí các phương tiện vận tải quặng theo Điều 5 Luật Khoáng sản là “Tổ chức, cá nhân KTKS có trách nhiệm: a) Hỗ trợ chi phí đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng hạ tầng kỹ thuật sử dụng trong KTKS và xây dựng công trình phúc lợi cho địa phương nơi có khoáng sản được khai thác theo quy định của pháp luật; b) Kết hợp khai thác với xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ, phục hồi môi trường theo dự án đầu tư KTKS; nếu gây thiệt hại đến hạ tầng kỹ thuật, công trình, tài sản khác thì tùy theo mức độ thiệt hại phải có trách nhiệm sửa chữa, duy tu, xây dựng mới hoặc bồi thường theo quy định của pháp luật”. Để tiến hành thu phí các phương tiện vận tải quặng, các cơ quan chức năng đã khảo sát, lấy số liệu của các doanh nghiệp KTKS, cân đối, xác định mức thu cho từng loại khoáng sản, trình cấp có thẩm quyền ban hành các mức thu có điều chỉnh theo từng năm cho phù hợp.

Thứ ba, tăng cường giám sát của cộng đồng trong khu vực KTKS: Tài nguyên khoáng sản là thuộc sở hữu toàn dân, nhưng nguồn lợi thu được từ KTKS lại thuộc về chủ doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản bằng mọi cách tăng thu, giảm chi và hậu quả là nguồn TNKS bị tổn thất, lãng phí nghiêm trọng; môi trường khu vực mỏ khoáng sản ô nhiễm, gây mất cân bằng sinh thái, mất an ninh, an toàn trong khu vực hoạt động khoáng sản, ảnh hưởng tiêu cực nhiều mặt tới đời sống dân cư, cũng như tình hình KT-XH của khu vực,... Do đó, việc giám sát của cộng đồng là rất quan trọng, góp phần giảm thiểu những tác động tiêu cực trên, hướng tới hoạt động khoáng sản phát triển bền vững.

Thông thường, các doanh nghiệp tham gia hoạt động khai thác TNKS càng gia tăng sản lượng thì mâu thuẫn với cộng đồng xung quanh sẽ tăng tỷ lệ thuận. Việc giải quyết kịp thời, nhanh gọn những bức xúc của cộng đồng sẽ hạn chế được phản ứng tiêu cực có thể xảy ra, ảnh hưởng tới sự phát triển KT-XH của khu vực. Quyền giám sát của cộng đồng, của người dân luôn được phát huy sẽ là yếu tố quan trọng góp phần quản lý TNKS có hiệu quả.

PGS. TS. ĐỖ THẾ TÙNG
Trường Đại học Mỏ - Địa chất

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10) năm 2023