news

Kinh tế biển tỉnh Quảng Ngãi: Những kết quả đạt được và nhiệm vụ, giải pháp

Thứ sáu, 15/12/2023, 17:00 (GMT+7)
logo Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, có diện tích tự nhiên là 5.152,67 km2, đường bờ biển dài khoảng 130 km với 05 cửa biển chính (Sa Cần, Sa Kỳ, Cửa Đại, Mỹ Á và Sa Huỳnh). Toàn tỉnh có 13 đơn vị hành chính trực thuộc (1 thành phố, 01 thị xã, 11 huyện), trong đó có 5 huyện miền núi, 1 huyện đảo, 5 huyện đồng bằng, với 173 đơn vị hành chính cấp xã; dân số hơn 1,2 triệu người. Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển kinh tế biển, những năm qua Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai toàn diện thực hiện đạt hiệu quả.

Kinh tế biển tỉnh Quảng Ngãi: Những kết quả đạt được và nhiệm vụ, giải pháp

Kết quả đạt được 

Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã tổ chức hội nghị học tập, quán triệt và tuyên truyền Nghị quyết số 36-NQ/TW cho 418 cán bộ chủ chốt. Các huyện ủy, thị ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy đã tổ chức 511 lớp học tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết số 36-NQ/TW; tổ chức hội nghị quán triệt Nghị quyết số 36-NQ/TW cho ban tuyên giáo, tuyên huấn các huyện ủy, thị ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy và đội ngũ báo cáo viên. Các sở, ngành, địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã tổ chức triển khai học tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết số 36-NQ/TW đến cán bộ, đảng viên theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Qua quán triệt, tuyên truyền, nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của biển, đảo trong phát triển KT-XH gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh được nâng lên; phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, khối đại đoàn kết toàn dân để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế biển.

Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã ban hành Kế hoạch số 187-KH/TU ngày 24/4/2019. Trên cơ sở đó, các quan điểm, chủ trương của Đảng trong Nghị quyết số 36-NQ/TW đã được cụ thể hóa thành những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XX; Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 20/5/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế biển tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2021 - 2025 và các nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy như: Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 11/5/2021 về huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển công nghiệp; Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 24/8/2021 về đầu tư phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại tạo động lực cho phát triển; Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 2/11/2021 về đẩy mạnh phát triển du lịch, từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Đến nay, sau gần 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được một số kết quả quan trọng bước đầu. Chỉ số phát triển con người của tỉnh Quảng Ngãi tăng từ 0,693 (năm 2018) lên 0,694 (năm 2020), thuộc nhóm trung bình của cả nước. Thu nhập bình quân đầu người của Quảng Ngãi (sơ bộ năm 2022) đạt khoảng 44,606 triệu đồng/người/năm. 

Tỉnh Quảng Ngãi từng bước hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển. Đã thực hiện rà soát, điều chỉnh, bổ sung và phê duyệt mới quy hoạch, bảo đảm đồng bộ, tạo điều kiện cho phát triển KT-XH, đặc biệt là phát triển các ngành kinh tế biển của tỉnh. Trong đó, có 3 quy hoạch được điều chỉnh, bổ sung , 2 quy hoạch được phê duyệt mới và 2 nhiệm vụ đang thực hiện. Đầu tư, phát triển các đô thị ven biển; đặc biệt, đã thành lập thị xã Đức Phổ trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Đức Phổ. Phê duyệt các quy hoạch về khai thác, sử dụng tài nguyên; thiết lập và quản lý hành lang bảo vệ bờ biển với tổng chiều dài khoảng 80,8km, diện tích khoảng 9,01km2; ban hành Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu giai đoạn 2016 - 2020 và 2021 - 2025; phê duyệt 88 kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu của các doanh nghiệp.

Nhiệm vụ phát triển KT-XH gắn với bảo đảm QP-AN, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo được tăng cường. Tiềm lực QP-AN được củng cố, tăng cường; thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh. Các công trình phòng thủ dọc tuyến ven biển và hải đảo tiếp tục được đầu tư xây dựng. Tình trạng khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (khai thác IUU) cơ bản được khắc phục. Tình trạng tàu, ngư dân của tỉnh xâm phạm vùng biển nước ngoài để khai thác thủy sản trái phép đã hạn chế. Chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện, không để nảy sinh các điểm nóng về an ninh trật tự, phòng ngừa, đấu tranh các đối tượng vi phạm pháp luật trên không gian mạng. Công tác bảo hộ ngư dân, tàu cá của tỉnh bị nước ngoài bắt giữ, bị nạn và bị tàu nước ngoài tấn công, xua đuổi, vây bắt, lấy tài sản, hải sản được quan tâm. Triển khai huy động nhân lực tàu thuyền và phương tiện dân sự tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Nghị định số 130/2015/NĐ-CP ngày 18/12/2015 của Chính phủ được triển khai thường xuyên và đúng kế hoạch đề ra; thành lập hải đội dân quân thường trực; nghiêm túc quản lý hoạt động của người, phương tiện trong khu vực biên giới biển Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý, bảo vệ an ninh, trật tự tại các cửa khẩu cảng; triển khai thực hiện Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 9/1/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới.

Tổ chức tuần tra, kiểm soát bảo đảm an ninh trật tự tại các mục tiêu quan trọng về QP-AN, kinh tế khu vực biên giới biển, đảo; cắm mốc khu vực biên giới biển tại các huyện, thị xã, thành phố ven biển; tuyên truyền cho người dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế biển, công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông; vận động ngư dân an tâm sản xuất trên biển góp phần bảo vệ chủ quyền thiêng liêng biển, đảo của Tổ quốc.

Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu 

Trong thời gian tới, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đặc biệt là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 3/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm QP-AN vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó 02 nội dung trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đó là: Mở rộng và xây dựng Trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất; phát triển huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi trở thành trung tâm du lịch biển - đảo. Để hoàn thành mục tiêu, kế hoạch, tỉnh Hà Tĩnh tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng. Đẩy mạnh quán triệt, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp Nhân dân về vị trí, vai trò của biển, đảo trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, khối đại đoàn kết toàn dân để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế biển trong thời gian đến. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp trong tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về biển, đảo gắn với nhiệm vụ chính trị trọng tâm của địa phương, đơn vị. Tích cực giới thiệu, quảng bá tiềm năng, lợi thế về biển, đảo của tỉnh Quảng Ngãi để đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển các ngành kinh tế biển.

Hai là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã được xác định trong Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 5/3/2020 của Chính phủ về thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW; Kế hoạch số 187-KH/TU ngày 24/4/2019 của Tỉnh ủy khóa XIX về thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW; Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 11/5/2021 của Tỉnh ủy khóa XX về huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để đẩy mạnh phát triển công nghiệp; Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 24/8/2021 của Tỉnh ủy khóa XX về đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại tạo động lực cho phát triển; Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 2/11/2021 của Tỉnh ủy khóa XX về đẩy mạnh phát triển du lịch, từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Rà soát, bổ sung, ban hành mới các chương trình, đề án, kế hoạch, cơ chế, chính sách và bố trí nguồn lực hợp lý để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế biển phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế biển và ven biển. Thu hút đầu tư, phát triển du lịch và dịch vụ biển. Bảo tồn, tôn tạo, khai thác hiệu quả các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa, di sản địa chất ở các khu vực ven biển và đảo để phát triển du lịch. Xây dựng hạ tầng các khu du lịch theo quy hoạch, phát triển các nhà hàng, khu nghỉ dưỡng, giải trí cao cấp ở khu vực ven biển và đảo; hỗ trợ các nhà đầu tư hoàn thành và đưa vào khai thác các dự án dịch vụ, du lịch được cấp phép đầu tư. Phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch biển, đảo; đồng thời, hỗ trợ sản xuất các sản phẩm truyền thống như: Tỏi đen, rượu tỏi, rượu hải sâm,... Xây dựng và quảng bá hình ảnh thiên nhiên, con người Quảng Ngãi, trong đó có vùng biển, đảo. Phát triển huyện đảo Lý Sơn trở thành trung tâm du lịch biển - đảo theo hướng du lịch xanh, sinh thái và được công nhận là điểm du lịch quốc gia. 

Quy hoạch, đầu tư, khai thác hiệu quả các cảng biển gắn với phát triển dịch vụ logistics. Phát triển hệ thống mạng lưới giao thông, vận tải đồng bộ; đầu tư tuyến đường Dốc Sỏi - sân bay Chu Lai, tạo điều kiện phát triển dịch vụ logistics; phát triển cảng nước sâu Dung Quất trở thành một trong những cảng có quy mô lớn của quốc gia; khai thác hiệu quả các cảng Sa Kỳ, Bến Đình.

Đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao; phát triển công nghiệp nặng có quy mô lớn; phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp sạch tại các khu công nghiệp. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Đồng thời, gắn kết chặt chẽ với khu vực kinh tế trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, tiến tới tự chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Từng bước khôi phục, phát triển hợp lý ngành công nghiệp đóng tàu; nâng cao năng lực các cở sở đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, cải hoán tàu vỏ thép, composite và vật liệu mới chất lượng cao đủ khả năng khai thác xa bờ; thu hút đầu tư, phát triển các ngành công nghiệp: cơ khí chế tạo, năng lượng, chế biến, các ngành kinh tế biển mới.

Thu hút đầu tư các dự án năng lượng tái tạo theo quy hoạch, không để xảy ra tình trạng phát triển ồ ạt, thiếu kiểm soát, gây quá tải lưới điện khu vực và hậu quả xấu sau này. Nghiên cứu phát triển các ngành kinh tế mới, chế biến một số sản phẩm dựa trên tài nguyên đa dạng sinh học biển như: Dược liệu, thực phẩm chức năng, chế biến rong, tảo, cỏ biển, các phụ phẩm thủy sản,… 

Bốn là, phát triển KTT Dung Quất trở thành một trong những trung tâm công nghiệp ven biển trọng điểm của khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, với trọng tâm là các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo, công nghiệp có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao. Huy động nguồn lực xây dựng, phát triển Trung tâm logistics khu vực cảng biển Dung Quất. Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng trong KKT Dung Quất, các KCN, cụm công nghiệp ven biển. Kêu gọi các nhà đầu tư đầu tư, kinh doanh kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp trong KKT Dung Quất, KCN Phổ Phong và các cụm công nghiệp. Tập trung hoàn thành các dự án giao thông quan trọng, bảo đảm kết nối các trục phát triển chính trên địa bàn KKT Dung Quất; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án khu công nghiệp, đô thị,...; thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực chất lượng cao; giải quyết tốt vấn đề xã hội, môi trường, tạo sức hấp dẫn với các nhà đầu tư. Hỗ trợ các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các dự án công nghiệp trọng điểm trên địa bàn KKT Dung Quất và các KCN sớm đi vào hoạt động như: Nâng cấp, mở rộng Nhà máy lọc dầu Dung Quất; Nhà máy Điện Dung Quất I, III; kêu gọi đầu tư các dự án điện khí khác; sớm mở rộng và xây dựng Trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất. Quy hoạch, đầu tư phát triển các khu đô thị, dịch vụ, du lịch ven biển, đảo chất lượng cao; các đô thị dọc theo tuyến đường Dung Quất - Sa Huỳnh theo hướng bền vững, thích ứng với BĐKH.

Năm là, tăng cường quản lý tài nguyên, BVMT, bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học biển; chủ động thích ứng với BĐKH, nước biển dâng và ứng phó với thiên tai. Cập nhật cơ sở dữ liệu về TNMT biển, đảo. Nâng cao năng lực quản lý tài nguyên, BVMT. Tăng cường trang thiết bị giám sát, cảnh báo về chất lượng môi trường, ứng phó sự cố môi trường; nâng cao chất lượng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp phép môi trường; kiểm soát nghiêm ngặt các yêu cầu kỹ thuật, tiêu chuẩn về môi trường đối với các dự án đầu tư có nguy cơ gây ô nhiễm. Quản lý nguồn nước thải, chất thải rắn tại các khu công nghiệp, nước thải tại các vùng nuôi thủy sản tập trung. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời các nguồn gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra các sự cố gây ô nhiễm môi trường ở khu vực ven biển, hải đảo của tỉnh; đẩy mạnh huy động các nguồn lực trong xã hội để bảo vệ môi trường. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Quyết định số 2053/QĐ-TTg ngày 28/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH. Chú trọng công tác phục hồi, bảo tồn hệ sinh thái biển. Trồng rừng phòng hộ ven biển và đảo Lý Sơn, nâng cao hiệu quả quản lý Khu bảo tồn biển Lý Sơn. Ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong dự báo, cảnh báo, chủ động phòng, tránh, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, động đất, sóng thần; chủ động thích ứng với BĐKH, nước biển dâng. Dự lường các yếu tố tác động để lồng ghép các yêu cầu về thích ứng với BĐKH, phòng tránh thiên tai trong kế hoạch, chương trình, dự án phát triển KT-XH.

Sáu là, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo tồn giá trị, phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá biển; xây dựng xã hội gắn bó, thân thiện với biển; phát triển KHCN; nâng cao chất lượng nhân lực vùng biển, đảo. Đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa, bảo tồn các di tích lịch sử, di sản văn hóa trong cộng đồng dân cư ven biển, đảo; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, giá trị lịch sử của dân tộc, tri thức tốt đẹp trong ứng xử với biển. Thực hiện biên soạn tài liệu và triển khai giảng dạy lồng ghép, tích hợp trong các môn học về kiến thức biển, đại dương, kỹ năng sinh tồn, thích ứng với BĐKH, nước biển dâng; ứng phó với thiên tai cho học sinh. Tiếp tục tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức về biển, xây dựng xã hội, ý thức, trách nhiệm, gắn bó, thân thiện với biển. Chú trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ y tế, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân ở khu vực ven biển, đảo. Tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu, khoa học, công nghệ tiên tiến trong phát triển kinh tế biển. Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; có chính sách để thu hút, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu vực biển, đảo. Thực hiện việc xây dựng chính sách hỗ trợ, giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động vùng ven biển, đảo để nâng cao đời sống cho người dân vùng biển, hải đảo.

Bảy là, bảo đảm QP-AN; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế. Xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; củng cố và nâng cao các tiềm lực trong khu vực phòng thủ. Tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Kiên quyết, kiên trì thực hiện các giải pháp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; xử lý tốt các tình huống trên biển; tổ chức phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự trong tình hình mới. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KT-XH với bảo đảm QP-AN; gắn hoạt động của các đội tàu đánh bắt hải sản xa bờ với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh vùng biển; khuyến khích ngư dân mở rộng ngư trường, tham gia đánh bắt xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền biên giới biển, đảo của Tổ quốc. Chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương liên quan để thực hiện tốt các biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, QP-AN trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tăng cường năng lực quản lý cửa khẩu, kiểm soát xuất nhập khẩu tại cảng biển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác phát triển kinh tế biển để thu hút đầu tư, chuyển giao, ứng dụng KHCN tiên tiến, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực; hợp tác khai thác hải sản với một số nước trong khu vực. Tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế để nâng cao năng lực quản lý và khai thác tài nguyên biển. Phối hợp giải quyết các vụ việc xảy ra trên biển có yếu tố nước ngoài; kịp thời kiến nghị các cơ quan chức năng có biện pháp bảo hộ công dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

BÙI THỊ QUỲNH VÂN

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ngãi

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 17+18 (Kỳ 1+2) tháng 9 năm 2023