
Quy hoạch khai thác và đóng cửa mỏ tại các địa phương: Còn chưa đồng bộ
Theo Tiến sỹ Đỗ Ngọc Hoàn, Viện Khoa học Công nghệ Mỏ (IMSAT), Hà Nội, hiện Việt Nam có khoảng 5.000 điểm mỏ khai thác trên 60 loại hình khoáng sản khác nhau. Trong đó, một số loại kháng sản có tiềm năng, trữ lượng đủ để khai thác như: Bauxit, Titan-zircon, đất hiếm, than đá, đá vôi, apatit, đá hoa trắng,... Khoáng sản đá vôi là vật liệu xây dựng (VLXD) thông thường ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú về nguồn gốc thành tạo, phân bố từ Nam ra Bắc với trữ lượng lớn. Đây là điều kiện thuận lợi cho các địa phương khai thác và sử dụng tại chỗ nguồn đá vật liệu xây dựng tại chỗ để tạo nguồn thu và phát triển cơ sở hạ tầng địa phương. Tuy nhiên, chính điều này cũng tạo ra việc khai thác và quản lý với quy mô nhỏ mang tính cục bộ từng mỏ, từng địa phương mà không được xem xét quy hoạch kỹ cũng như đồng bộ về quy hoạch khai thác và đóng cửa mỏ.
Tại Việt Nam, các quy định đóng cửa mỏ được xác định là sau khi kết thúc khai thác đưa mỏ về trạng thái ổn định: San gạt, cải tạo tầng, tháo dỡ công trình,… Lập kế hoạch đóng cửa mỏ và trình các cơ quan chức năng khi chuẩn bị kết thúc khai thác. Hoạt động đóng cửa mỏ mới quan tâm chủ yếu về ổn định vật lý của công trình, chưa tích hợp các yếu tố KT-XH vào việc đóng cửa mỏ. Mặt bằng sử dụng đất sau đóng cửa mỏ liên quan trực tiếp tới xã hội, nhưng mới định hướng sử dụng làm hồ chứa nước, trồng cây không có hướng dẫn cụ thể về tính ổn định vật lý, hóa học,… Chi phí đóng cửa mỏ phải sử dụng kinh phí của dự án mà với mỗi mô hình sử dụng đất sau khai thác khác nhau chi phí đóng cửa mỏ sẽ khác nhau ảnh hưởng tới hiệu quả của nhà đầu tư. Khi đó, cần xem xét tuổi thọ, biên giới kết thúc, các giải pháp đảm bảo ổn định khác nhau để đảm bảo dự án hiệu quả sau đóng cửa. Sử dụng đất sau đóng cửa các mỏ chưa hiệu quả, định hướng sử dụng các mặt bằng được nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường thường mang tính đối phó, đơn giản, càng ít chi phí cải tạo càng tốt, chưa thực sự phù hợp với đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của khu vực.
Các mỏ trong cùng khu vực chưa có sự liên kết trong một tổng thể chung, chưa có mô hình đóng cửa tích hợp để việc sử dụng mặt bằng sau đóng cửa tối ưu nhất. Các công trình nghiên cứu hiện có mới tập trung vào việc sử dụng mặt bằng sau đóng cửa trên cơ sở các tiêu chí đảm bảo mục tiêu đề ra mà chưa có các nghiên cứu về ổn định cho từng mô hình. Vì vậy, việc nghiên cứu lựa chọn được phương án hợp lý là vừa tận dụng được quỹ đất, hình thành khu dân cư mới, mặt nước nông cũng được tận dụng khai thác điện mặt trời - đây là nguồn năng lượng sạch, mang lại lợi ích cả về mặt KT-XH cho khu vực.
Giải pháp đảm bảo dự án hiệu quả sau đóng cửa
Bình Dương là tỉnh có tiềm năng tương đối lớn về khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường. Ngành khai khoáng của tỉnh trong nhiều năm qua đã cung ứng nguyên liệu cho xây dựng cơ sở hạ tầng của tỉnh và khu vực lân cận, góp phần tích cực trong phát triển KT-XH của tỉnh nói riêng và khu vực phía Nam nói chung.
Theo thống kê của Sở Công Thương tỉnh Bình Dương, tính đến ngày 25/2/2023, trên địa bàn tỉnh có 32 mỏ được phép khai thác và thăm dò đá VLXD với tổng diện tích hơn 1.046 ha, trữ lượng phê duyệt hơn 710 triệu m3. Toàn tỉnh có 26 mỏ đá đã được cấp giấy phép khai thác đá VLXD đang hoạt động với tổng diện tích 777 ha và trữ lượng được phép khai thác 377,1 triệu m3. Các mỏ đá VLXD tỉnh Bình Dương tập trung chủ yếu tại 2 cụm mỏ là: Thường Tân - Tân Mỹ thuộc huyện Bắc Tân Uyên với 13 mỏ và cụm mỏ thuộc huyện Phú Giáo với 4 mỏ.
Tiến sỹ Bùi Xuân Nam, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Hà Nội, Việt Nam, thành viên nhóm nghiên cứu cho biết, đã nghiên cứu hai phương án đóng cửa mỏ sau khai thác đối với khu mỏ điển hình cho hoạt động khai thác đá vật liệu xây dựng tại Bình Dương, nghiên cứu lựa chọn được phương án hợp lý là vừa tận dụng được quỹ đất, hình thành khu dân cư mới cho cư dân, mặt nước moong khai thác cũng được tận dụng khai thác điện mặt trời - đây là nguồn năng lượng sạch, mang lại lợi ích cả về mặt KT-XH cho khu vực. Cụ thể là Phương pháp SMART để xác định các mục tiêu cụ thể, từ đó làm cơ sở để xây dựng các tiêu chí có thể đo lường được, có thể đạt được, có liên quan, đúng thời gian làm cơ sở đánh giá các phương án đóng cửa mỏ.
Phương pháp trọng số cộng đơn giản SAW sử dụng hàm cộng tuyến tính để tính giá trị của mỗi phương án, tối ưu bằng tiến trình phân tích cấp bậc (analytic hierarchy process) đối với các tiêu chí rõ ràng hoặc phương pháp xử lý phân cấp phân tích mờ để xử lý được sự mơ hồ hoặc không rõ ràng để làm cơ sở xác định phương án hợp lý cho công tác đóng cửa mỏ.
Theo đánh giá của Tiến sỹ Phan Hồng Việt, Sở Công thương tỉnh Bình Dương, việc lựa chọn mô hình đóng cửa mỏ đá khai thác xuống sâu hiệu quả cần dựa trên các phân tích đánh giá đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất và ý kiến cộng đồng.
Phương pháp tiến trình phân cấp thứ bậc (AHP, FAHP) là công cụ phù hợp để lựa chọn theo từng giai đoạn lập kế hoạch đóng cửa mỏ. Tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy phương án cải tạo thành khu dân cư kết hợp tận dụng mặt nước moong khai thác lắp đặt pin mặt trời nổi, cung cấp điện cho khu dân cư với tổng điểm nguyên tắc là 73,27 là phương án đóng cửa mỏ và sử dụng mặt bằng sau đóng cửa phù hợp cho mỏ đá. Phương án vừa tận dụng được quỹ đất, hình thành khu dân cư mới cho cư dân, mặt nước moong khai thác cũng được tận dụng khai thác điện mặt trời - đây là nguồn năng lượng sạch, mang lại lợi ích cả về mặt KT-XH cho khu vực.
Tiến sỹ Phan Hồng Việt nhấn mạnh, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để hoàn thiện hơn về quản lý tài nguyên và môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản nói chung và mỏ đá nói riêng. Trong đó, cần tiến hành áp dụng triệt để phương án vừa cải tạo vừa khai thác nhằm giảm thiểu thời gian cũng như kinh phí cải tạo sau kết thúc khai thác.
THANH TÚ
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 7 năm 2024