Luận bàn chuyện lấn biển, mở rộng quỹ đất

Thứ ba, 7/5/2024, 14:24 (GMT+7)
logo Lấn biển và những vấn đề liên quan đến hoạt động lấn biển đã được chính thức đưa vào quy định trong Luật Đất đai năm 2024. Theo đó, lấn biển là việc mở rộng diện tích đất trong phạm vi từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm về phía biển thuộc vùng biển Việt Nam. Lấn biển vẫn luôn là tâm điểm và câu chuyện tiếp tục luận bàn

Luận bàn chuyện lấn biển, mở rộng quỹ đất

Điều 190, Luật Đất đai năm 2024 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/04/2024

Tại Điều 190, Luật Đất đai 2024 quy định về hoạt động lấn biển. Theo đó, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng vốn, kỹ thuật, công nghệ thực hiện các hoạt động lấn biển; có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho nhà đầu tư thực hiện hoạt động lấn biển theo quy định của pháp luật. Trong đó, các hoạt động lấn biển phải tuân thủ 05 nguyên tắc:

Nguyên tắc 1: Bảo đảm QP-AN, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi ích quốc gia trên biển; phù hợp với quy định của luật khác có liên quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;

Nguyên tắc 2: Dựa trên cơ sở đánh giá đầy đủ về kinh tế, xã hội, môi trường, bảo đảm phát triển bền vững, đa dạng sinh học, các yếu tố tự nhiên, tác động của thiên tai, BĐKH và nước biển dâng;

Nguyên tắc 3: Phù hợp với quy hoạch tỉnh hoặc QHSDĐ cấp huyện hoặc quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch đô thị;

Nguyên tắc 4: Khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên biển; bảo đảm hài hòa lợi ích của tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động lấn biển và tổ chức, cá nhân khác có liên quan; bảo đảm quyền tiếp cận với biển của người dân, cộng đồng;

Nguyên tắc 5: Hoạt động lấn biển phải được lập thành dự án đầu tư hoặc hạng mục của dự án đầu tư theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trong trường hợp hoạt động lấn biển mà có phần diện tích thuộc một trong các khu vực sau đây thì chỉ được thực hiện khi được Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư như:

Khu vực 1: Khu vực bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được công nhận theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.

Khu vực 2: Di sản thiên nhiên theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.

Khu vực 3: Vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài - sinh cảnh, khu bảo vệ cảnh quan, vùng đất ngập nước quan trọng đã được công bố theo quy định của pháp luật về đa dạng sinh học, pháp luật về lâm nghiệp.

Khu vực 4: Khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá theo quy định của pháp luật về thủy sản.

Khu vực 5: Khu vực cảng biển, vùng nước trước cầu cảng, vùng quay trở tàu, khu neo đậu, khu chuyển tải, khu tránh bão, vùng đón trả hoa tiêu, vùng kiểm dịch, luồng hàng hải, vùng nước để xây công trình phụ trợ khác theo quy định của pháp luật về hàng hải.

Khu vực 6: Cửa sông và các khu vực đã được quy hoạch, sử dụng vào mục đích QP-AN.

Khi đó, 06 khu vực biển nêu trên nếu được xác định để thực hiện hoạt động lấn biển trong QHSDĐ đã được phê duyệt và dự án đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư thì việc quản lý, sử dụng khu vực biển để thực hiện hoạt động lấn biển như đối với đất đai trên đất liền.

Việc giao khu vực biển để thực hiện hoạt động lấn biển được tiến hành đồng thời với việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư.

Đối với trách nhiệm QLNN về hoạt động lấn biển sẽ do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện: Bộ TN&MT giúp Chính phủ thống nhất QLNN về hoạt động lấn biển; thanh tra, kiểm tra hoạt động lấn biển và quản lý khu vực lấn biển theo quy định của pháp luật; Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao có trách nhiệm quản lý, kiểm tra hoạt động lấn biển; ban hành, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy định, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật liên quan đến hoạt động lấn biển; UBND cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý, giao đất, cho thuê đất lấn biển và thanh tra, kiểm tra hoạt động lấn biển và quản lý, sử dụng khu vực lấn biển trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

Với điều 190 trong Luật Đất đai năm 2024 chủ yếu tập trung vào việc kiểm soát và quản lý hoạt động lấn biển. Việc có hiệu lực sớm hơn từ ngày 1/4/2024 đồng nghĩa với việc Chính phủ đang cần mạnh mẽ can thiệp và quản lý ngay lập tức các hoạt động lấn biển để ngăn chặn những tác động tiêu cực đối với môi trường và cộng đồng. Chính sách này có thể bao gồm các biện pháp tăng cường giám sát, xử lý nhanh chóng các trường hợp vi phạm và thậm chí có thể áp dụng các hình phạt để đảm bảo tuân thủ.

Lấn biển với nhiều mục đích

Theo ông Đoàn Văn Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội BĐS Việt Nam: “hoạt động lấn biển đã có từ rất sớm. Tại Hà Lan việc này đã được bắt đầu từ Thế kỷ 13 hay Nhật Bản từ Thế kỷ 15. Chỉ tính từ năm 2000 đến nay, diện tích lấn biển của thế giới đã đạt tới 2.500 km2, tương đương diện tích của Luxemburg. Trung Quốc, Indonesia và UAE là các quốc gia dẫn đầu về diện tích lấn biển”.

Lấn biển có rất nhiều mục đích như ở Singapore mở rộng lãnh thổ; Trung Quốc xây dựng đặc khu hành chính - kinh tế; Colombo phát triển thành phố tài chính; Philippines thành phố giải trí, văn hóa; Nigeria thành phố thương mại quốc tế Eko Atlantic; hình thành các siêu dự án bất động sản như Palm Jumeirah, The World, Yas Island (UAE), Forest City (Malaysia); Nhật Bản làm sân bay: Mỹ làm công viên, trường đại học; Morocco cơ sở tôn giáo; Hàn Quốc làm nông nghiệp; Bahrain bãi tắm biển riêng cho phụ nữ,…

Còn ở nước ta, việc lấn biển đã diễn ra ở một số tỉnh thành ven biển như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Kiên Giang,... Tuy nhiên, việc lấn biển ở những địa phương này đã gặp nhiều vướng mắc, bất cập nhất là vấn đề quy hoạch các dự án. Nhiều dự án đã được duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 trong khi địa phương chưa có quy hoạch chung về lấn biển, nên dẫn đến nhiều hệ lụy về môi trường, ảnh hưởng đến doanh nghiệp,...

Tính đến hết tháng 12/2023, cả nước có 15/28 tỉnh, thành phố ven biển đã có Quy hoạch tỉnh, thành phố được công bố nhưng chỉ 04 tỉnh đề cập đến lấn biển là Thanh Hóa, Sóc Trăng, Bến Tre và Kiên Giang. Tỉnh Thanh Hóa đề cập đến lấn biển nhưng để bảo vệ môi trường; tỉnh Sóc Trăng có quy hoạch lấn biển ở Cù Lao Dung, Trần Đề và Vĩnh Châu; tỉnh Bến Tre có quy hoạch mở rộng ra biển 50.000 ha (500 km2) ở Thạch Phú, Ba Tri, Bình Đại; tỉnh Kiên Giang lấn biển ở An Minh, An Biên, Rạch Giá, Hòn Đất, Kiên Lương, Hà Tiên, Kiên Hải và Phú Quốc.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đặt ra mục tiêu: Tới năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành cường quốc biển. Trong bối cảnh Chính phủ đang xây dựng Nghị định quy định về lấn biển; các tỉnh, thành phố đang gấp rút xây dựng và phê duyệt quy hoạch tỉnh, thành phố,... một vấn đề lớn đặt ra là, trước mắt và lâu dài, nước ta sẽ mở rộng không gian về phía biển như thế nào nếu các địa phương không có quy hoạch bài bản, với tầm nhìn xa có trách nhiệm với tương lai của các thế hệ mai sau.

Cân nhắc kỹ lưỡng

Ở quy mô quốc gia, việc đầu tư nguồn lực cho hoạt động khảo sát tổng thể tất cả vùng biển có tiềm năng là điều rất cần thiết. Trong quá trình khảo sát, cần chú ý đánh giá điều kiện khí hậu thủy văn, tài nguyên ven biển, tác động môi trường, thủy triều, dòng hải lưu, kết nối sông suối, kết nối hạ tầng, các di sản và vùng đệm, sinh kế của người dân, khối lượng đào đắp, dự kiến cơ cấu SDĐ, sử dụng mặt nước, ước lượng giá trị của nền kinh tế biển,...

Tiếp theo khảo sát là lập quy hoạch lấn biển quốc gia, trong đó tập trung tạo ra hạ tầng và sản phẩm xứng tầm như các đặc khu, thành phố kinh tế, thành phố thông minh của tương lai, sân bay, cảng biển, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp, công nghệ cao, khu du lịch và các sản phẩm bất động sản độc đáo thu hút đầu tư nước ngoài, người nước ngoài giàu có, chuyên gia, người về hưu,...

Toàn bộ quy trình này chúng ta cần phải nghiên cứu các phương pháp lấn biển tiên tiến trên thế giới của Hà Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, UAE; phổ biến các phương pháp hiệu quả để áp dụng; xây dựng bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn mới; nghiên cứu vật liệu mới để thay thế cát trong hoạt động lấn biển như New Sand (Cát mới) của Singapore. Đồng thời, nước ta cần tích cực nhận chuyển giao công nghệ vật liệu mới phục vụ lấn biển; duy trì chính sách cấm xuất khẩu cát tự nhiên; có giải pháp kiểm soát tốt nạn cát tặc,...

Quy hoạch lấn biển tổng thể cần được công khai, truyền thông về cả cơ hội và thách thức, để người dân hiểu hơn về biển, về tầm nhìn hướng ra biển và làm giầu từ biển.

Việt Nam cần có chính sách mở, nhất quán về khuyến khích hoạt động lấn biển; có thể chế đồng bộ, minh bạch theo tinh thần cân bằng giữa quản lý và kiến tạo trong lấn biển; luật hóa hoạt động lấn biển, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ các quy định giữa Luật Đất đai, Luật Biển Việt Nam, Luật TN, MT biển và Hải đảo; khuyến khích xã hội hóa hoạt động lấn biển; quy định rõ các khu vực hạn chế; khu vực cấm lấn biển.

Với sự hỗ trợ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, các nguồn lực cứng và mềm, mọi quốc gia trong khu vực ASEAN, Đông Bắc Á, Trung Đông, Ấn Độ, Anh, Mỹ và trên thế giới có biển đều hướng ra biển với tầm nhìn xa, chiến lược tham vọng về kinh tế, QP-AN và hàng hải. Nếu chậm được nghiên cứu thỏa đáng ở quy mô quốc gia, Việt Nam sẽ không tận dụng tốt không gian mặt tiền có giá trị kinh tế ngày càng cao này. Vì vậy, sẽ rất khó để đạt mục tiêu trở thành cường quốc biển vào năm 2045.

Nhìn chung, các nước có kinh nghiệm lấn biển đều quan tâm tới việc xây dựng chính sách, pháp luật liên quan tới lấn biển. Các nước đều quan tâm tới quy hoạch, kế hoạch lấn biển; có những quy định chặt chẽ nhằm quản lý hoạt động lấn biển, đặc biệt là quản lý tránh những tác động tiêu cực về môi trường, quy định về việc SDĐ sau khi lấn biển. Bên cạnh đó, các nước cũng quan tâm tới những hướng dẫn về kỹ thuật, phương pháp lấn biển. Đây là những kinh nghiệm mà Việt Nam có thể học hỏi trong quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về lấn biển trong thời điểm này.

Bên cạnh đó, để có những chiến lược đầu tư đúng đắn, bền vững, ông Phạm Đức Hiếu, Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế đã đưa ra khuyến cáo cho các nhà đầu tư. Theo ông Hiếu, trong Luật Đất đai năm 2024, Luật đã quy định rõ về 3 loại dự án có liên quan đến hoạt động lấn biển. Một là, dự án đầu tư trên đất lấn biển sử dụng vốn của nhà đầu tư (vốn ngoài ngân sách nhà nước). Trường hợp này, việc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư là để thực hiện dự án đầu tư trên đất lấn biển. Đối với loại dự án này đang có hai luồng ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng, cần xác định rõ các giai đoạn thực hiện khi nhà đầu tư trúng thầu thì giao khu vực biển để nhà đầu tư thực hiện lấn biển, khi hoàn thành lấn biển thì giao đất, cho thuê đất không đấu giá, không đấu thầu để thực hiện dự án. Trong khi đó, ý kiến còn lại đề nghị giao đất luôn từ thời điểm giao khu vực biển để nhà đầu tư trúng thầu thực hiện lấn biển. Hai là, đối với dự án đầu tư trên đất lấn biển là dự án đầu tư công, dự luật quy định Nhà nước đấu thầu lựa chọn nhà thầu thực hiện hoạt động lấn biển, sau khi hoàn thành lấn biển, đất lấn biển được dùng để thực hiện dự án đầu tư trên đất lấn biển đã được xác định khi phê duyệt dự án đầu tư công đó. Ba là, đối với dự án lấn biển đơn thuần, tạo quỹ đất, Nhà nước đấu thầu lựa chọn nhà thầu thực hiện hoạt động lấn biển, sau khi hoàn thành lấn biển, đất lấn biển giao cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý để giao, cho thuê thông qua hình thức đấu giá QSDĐ. Quy định như vậy để tạo cơ sở pháp lý về đất đai, cùng với các quy định khác có liên quan về đầu tư, cho phép thực hiện dự án lấn biển tạo quỹ đất, phù hợp với điều kiện thực tế về địa chất nơi thực hiện lấn biển và ngân sách cho việc thực hiện.

NGUYỄN HƯỜNG
Viện Khoa học Môi trường, biển và hải đảo
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 6 năm 2024