Mô hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại đảo JeJu Hàn Quốc và bài học cho các đảo của Việt Nam

Thứ sáu, 3/1/2025, 10:48 (GMT+7)
logo Hơn 30 năm trước tại Hàn Quốc, có 96% rác thải bị chôn lấp, đối diện với tình trạng ô nhiễm và thiếu đất cho các bãi chôn lấp và chịu gánh nặng tài chính nhà nước trong xử lý rác.

Tóm tắt

Câu chuyện về mô hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại đảo Jeju đã đạt được những thành công đáng kể trong phân loại rác tại nguồn, thu phí theo lượng phát sinh, xử lý chất thải theo hướng tuần hoàn, tái chế,… là những bài học rất hữu ích cho các địa phương, đặc biệt là các đảo và khu vực ven biển của Việt Nam. Điều này đặc biệt quan trọng, khi quy định về phân loại rác tại nguồn bắt buộc phải thực hiện từ ngày 01/01/2025.

Từ khóa: phân loại rác tại nguồn, quản lý chất thải, kinh tế tuần hoàn

Tiếp cận quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Hàn Quốc

Tuy nhiên, những năm 1970 - 1980, do tốc độ tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh chóng tại Hàn Quốc, lượng rác thải gia tăng liên tục và trở thành một thách thức lớn của xã hội. Năm 1987, Chính phủ Hàn Quốc đã đề ra kế hoạch xây dựng các nhà máy đốt rác, bãi chôn lấp hợp vệ sinh và nhà máy xử lý trung gian trên cả nước. Tuy nhiên, kế hoạch này gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn đầu tư, giá đất tăng, người dân khiếu kiện vì các vấn đề liên quan đến môi trường sống gần khu vực xử lý rác thải.

Giải quyết tình trạng này, Hàn Quốc đã bắt đầu hành trình biến rác thành tài nguyên. Đã ban hành Luật Thúc đẩy tái chế và tiết kiệm tài nguyên (Luật Tái chế) năm 2008; Thành lập K-Eco (Korea Environment of Cooperation) với mục tiêu thúc đẩy tuần hoàn tài nguyên; Thành lập trung tâm thực thi nhiệm vụ tái chế (KORA),… Năm 1995, Hệ thống Thu phí rác thải dựa trên khối lượng (VBWF) ra đời tại Hàn Quốc. Theo đó, các hộ gia đình, cơ sở thương mại bắt buộc phải mua túi chuyên dụng để vứt rác, xả rác bao nhiêu, trả tiền bấy nhiêu; chỉ riêng rác tái chế là được thu gom miễn phí. Hệ thống này hướng tới mục tiêu: (1) Giảm phát sinh rác thải tại nguồn; (2) Hình thành thói quen phân loại rác và vật liệu tái chế trước khi vứt bỏ; (3) Giảm sự phụ thuộc vào các cơ sở xử lý chất thải như cơ sở đốt rác và bãi chôn lấp.

Việc lập ra các cơ quan trung lập như K-Eco và KORA đã giảm gánh nặng tài chính cho nhà nước và tạo thêm cơ hội việc làm cho người dân.

Kết quả sau đó sản lượng rác được tái chế của Hàn Quốc tăng 72%; 93% bao bì nhựa phim được tái chế năm 2016; 6 tỷ USD được tạo ra từ vật dụng tái chế; 5 tỷ USD từ việc cắt giảm chi phí đốt và chôn rác, giảm được khí CO2, thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn.

Thực hiện quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại đảo Jeju

Jeju là hòn đảo lớn nhất của Hàn Quốc, sở hữu vẻ đẹp tự nhiên với diện tích khoảng 1.846 km², biến Jeju trở thành một điểm đến du lịch. Tuy nhiên, lượng rác thải sinh hoạt đã gia tăng đáng kể, một phần do lượng lớn khách du lịch ghé thăm đảo. Dựa trên số liệu từ Kim và cộng sự (2017), với 12,6 triệu du khách hàng năm, trong đó 80% là khách nội địa và 20% là khách quốc tế, con số này dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng. Điều này tạo ra áp lực lớn lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa của đảo, đặt ra yêu cầu cấp thiết về tính bền vững trong quản lý rác thải và BVMT. 

Để giải quyết các vấn đề trên, chính quyền địa phương đã ban hành nhiều chính sách nhằm quản lý chất thải hiệu quả hơn. Một trong những giải pháp sáng tạo để quản lý chất thải hiệu quả là hệ thống thu phí rác thải theo thể tích phát sinh (Volume-based Waste Fee - VBWF) mà Hàn Quốc đã áp dụng. 

Bảng 1: Phân loại chất thải thuộc đối tượng điều chỉnh của VBWF
Mô hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại đảo JeJu Hàn Quốc và bài học cho các đảo của Việt Nam

Các hộ gia đình, các cơ sở thương mại quy mô nhỏ bắt buộc phải mua túi rác chuyên dụng để đựng rác. Điều này đồng nghĩa với việc người dân sẽ phải trả phí dựa trên lượng rác thải họ thải ra, theo cơ chế “xả bao nhiêu, trả bấy nhiêu”. Theo đó, rác thải tại Jeju được phân loại và quản lý như sau:

Đối với rác tái chế: Có thể tái chế được phân thành 4 - 5 loại, bao gồm: Giấy báo, lon kim loại, chai thủy tinh, nhựa, kim loại khác và được thu gom miễn phí. Tuy nhiên, rác tái chế cũng có thể được phân thành 2 - 3 loại, nếu chính quyền địa phương gặp khó khăn về trang thiết bị và nhân lực. Rác tái chế được thu gom tại hộ gia đình bằng thùng thu gom, hoặc tại các khu vực được chỉ định vào một ngày nhất định.

Đối với rác thực phẩm: Tại Jeju, rác thực phẩm được chứa trong các thùng thu gom, hoặc túi chuyên dụng chỉ dành riêng. Rác này được thu gom hàng ngày, hoặc cách ngày, tùy thuộc vào năng lực của địa phương.

Đối với rác thải có kích thước lớn (rác thải “cồng kềnh”): Là loại rác có thể cân và xác định riêng được như đồ gia dụng, điện tử, nội thất,… với loại có thể tái chế, người dân chỉ cần báo cho trung tâm tái chế do chính quyền địa phương điều hành (rác này sẽ được thu gom miễn phí). Các loại rác thải “cồng kềnh” khác cần được dán nhãn thích hợp trước khi đem đi thải bỏ. Nhãn này có thể mua từ cơ quan địa phương, hoặc người thu gom rác. 

Đối với nhóm chất thải này người Người xả thải phải mua dán nhãn/tem) mua từ chính quyền địa phương để được phép xả thải những loại chất thải này. Các loại chất thải khác không thuộc nhóm đối tượng được thu gom bởi hệ thống VBWF sẽ được chôn lấp hoặc được xử lý bởi bên thứ ba do chính quyền quy định.

Phương thức trả phí được thực hiện thông qua việc bán túi và tem thu gom chất thải, với giá tùy theo điều kiện của mỗi địa phương, quận huyện nhưng không chênh nhau nhiều lắm. Lúc đầu chỉ có hai loại túi là tái chế và không tái chế được. Có nhiều kích cỡ túi khác nhau để đáp ứng nhu cầu thải rác nhiều hay ít của các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức.

Mô hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại đảo Jeju đã đạt được những thành công đáng kể. Hàng ngày, đảo Jeju thu gom khoảng 628 tấn chất thải rắn sinh hoạt, trong đó có đến 34% là chất thải thực phẩm (Chang et al., 2022). Rác hữu cơ, chủ yếu là chất thải thực phẩm, được chuyển hóa thành phân compost chất lượng cao phục vụ cho nông nghiệp. Các loại rác thải khác như nhựa, giấy, kim loại được tái chế hoặc xử lý để thu hồi năng lượng. 

Nhờ những nỗ lực này, đảo Jeju đã giảm đáng kể lượng rác thải chôn lấp, BVMT và góp phần xây dựng một cộng đồng bền vững. Việc áp dụng các chính sách tái chế và quản lý chất thải bền vững có thể giúp Jeju tăng khả năng xử lý rác thải lên đến 4,51%. Để hỗ trợ cho các chính sách này, mỗi hộ gia đình sẵn sàng đóng góp trung bình 41,234 KRW mỗi năm (Ko et al., 2020). Đặc biệt, có 66% người dân chấp nhận trả thêm 0,06 USD (66 KRW) cho mỗi túi rác phân hủy sinh học, cho thấy sự đồng thuận và cam kết của cộng đồng trong việc giảm thiểu tác động môi trường.

Một trong những vấn đề quan trọng là sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chuyên môn trong lĩnh vực quản lý chất thải và ý thức phân loại rác thải của một bộ phận người dân vẫn chưa cao. Điều này làm giảm hiệu quả của các chương trình tái chế, làm tăng lượng rác phải xử lý theo các phương pháp tốn kém hơn. Để đối phó hiệu quả với những thách thức trên, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp và cộng đồng. Các giải pháp khả thi bao gồm việc tìm kiếm các nguồn tài chính mới, như hỗ trợ từ chính phủ, các tổ chức quốc tế, hoặc khuyến khích đầu tư tư nhân vào lĩnh vực xử lý rác thải. Việc phát triển và áp dụng các công nghệ xử lý rác thải tiên tiến, như công nghệ chuyển đổi chất thải thành năng lượng, tái chế và compost hóa, sẽ giúp tối ưu hóa quá trình xử lý và giảm thiểu tác động đến môi trường.

Ngoài ra, xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn, tăng cường giáo dục môi trường là những biện pháp cần thiết để nâng cao nhận thức, thúc đẩy hành động BVMT từ cộng đồng. Các chiến dịch tuyên truyền, giáo dục và các chương trình khuyến khích phân loại rác thải tại nguồn cần được thực hiện liên tục để thay đổi hành vi của người dân và du khách.

Bên cạnh đó, hoạt động tái chế rác thải được tích hợp chặt chẽ vào các chương trình du lịch bền vững, nhằm tăng cường nhận thức và đóng góp vào BVMT (Ahmad et al., 2020). Chính quyền Jeju đã phát triển chương trình Eco-RUN, một sáng kiến du lịch kết hợp với BVMT, cho phép du khách tham gia vào việc thu gom rác thải biển trong quá trình lặn. Người tham gia được trang bị bộ đồ lặn và giỏ lưới, tương tự như thợ lặn truyền thống “haenyeo” của Jeju, để thu thập rác thải biển, bao gồm các vật phẩm lớn như lốp xe, xe đạp, và những mảnh rác nhỏ hơn như chai nhựa, bàn chải đánh răng và lưới đánh cá.

Số lượng rác biển thu thập được từ các hoạt động này sau đó được tái chế thông qua các sáng kiến nghệ thuật và cộng đồng. Các nghệ sĩ địa phương sử dụng rác thải biển để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật, đồng thời tổ chức triển lãm nhằm nâng cao nhận thức về ô nhiễm biển. Triển lãm không chỉ trưng bày các tác phẩm từ rác thải, mà còn mô phỏng một quá trình làm sạch biển, qua đó khuyến khích du khách tham gia vào các hoạt động tái chế trực tiếp.

Một số bài học kinh nghiệm và khuyến nghị cho Việt Nam

Theo Điều 79 của Luật BVMT năm 2020, việc phân loại rác tại nguồn phải được hoàn thành chậm nhất là vào ngày 31/12/2024. Theo đó, phân loại rác tại nguồn sẽ mang tới hàng loạt những tính năng ưu việt như tiết kiệm chi phí xử lý rác thải, tiết kiệm diện tích đất chôn lấp, hạn chế ô nhiễm đất, nguồn nước ngầm, không khí,...

Việt Nam có lợi thế về bờ biển dài, nhiều bãi biển và đảo đẹp thu hút nhiều khách du lịch. Tuy nhiên, sức ép từ phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ làm cho các hòn đảo lớn như Phú Quốc, Lý Sơn, Côn Đảo,… đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là rác thải sinh hoạt, rác thải nhựa,... Công tác quản lý CTR trên đảo vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế như: Chưa quy định, phân luồng quản lý chất thải một cách thống nhất, chưa phân loại được chất thải tại nguồn, thiếu trang thiết bị, phương tiện thu gom, phân loại, thiếu kinh phí triển khai lập, quản lý hồ sơ, hệ thống dữ liệu thông tin về CTR,... Ngoài ra, với đặc thù các đảo, việc áp dụng các giải pháp, mô hình thu gom gặp rất nhiều khó khăn so hạn chế về phương tiện, kỹ thuật, khoảng cách, hình thức thu gom,...

Từ câu chuyện của đảo Jeju, các vấn đề cần được chú trọng như: Chính sách tái chế có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu rác thải từ, thúc đẩy quá trình tuần hoàn tái chế. Hướng tới thực hiện quy định của Luật BVMT năm 2020, các khu vực ven biển và đảo của Việt Nam cần có sự chuẩn bị chu đáo về chính sách, hạ tầng, nghiên cứu khả thi và hoạt động thử nghiệm tại các đảo trước khi có thể chính thức triển khai. Tạo sự đồng thuận giữa cơ quan quản lý và người dân trên cơ sở thực hiện tốt công tác truyền thông đa chiều. Cách thức thu phí và sử dụng nguồn thu, cách phân loại rác,… cần được hướng dẫn đầy đủ cho người dân.

Đối với đặc thù khu vực biển đảo, cần nghiên cứu quy định mức phí phù hợp. Mức phí cần đủ lớn để khuyến khích giảm thải, nhưng không được quá cao, tạo nên gánh nặng tài chính cho các hộ gia đình. Mức phí áp dụng tại các nước thường được điều chỉnh tương ứng với lạm phát và điều kiện KT-XH cho từng đảo. 

Đặc biệt, cần thiết lập một hệ thống đồng bộ các khâu từ thu gom, vận chuyển và xử lý theo quy hoạch đối với các khu vực đảo gần bờ, xa bờ, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả khi thực hiện, áp dụng triệt để nguyên tắc kinh tế tuần hoàn, ưu tiên tái chế, giảm thiểu tối đa lượng rác thải phát sinh phải xử lý.

Ghi chú: Bài báo là sản phẩm của nhiệm vụ BVMT “Điều tra, khảo sát hiện trạng và đề xuất mô hình phân loại, thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt dựa vào cộng đồng tại một số đảo lớn ở nước ta”, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì thực hiện.

Tài liệu tham khảo

1.    Hàn Trần Việt (2020). Mô hình thu phí chất thải rắn dựa trên lượng thải - Kinh nghiệm từ Hàn Quốc. Tạp chí Môi trường, số Chuyên đề Tiếng việt 2/2020;

2.    Kinh, Kieu Thi (2021). Jeju’s garbage is piling up on land, in the sea: Visitors are part of the problem along with poor infrastructure. (2019, July 21);

3.    Ki-Yeong Yu (2017). Volume-based waste fee: System for municipal solid waste. Seoul Institute;

4.    Ko, S., Kim, W., Shin, S.-C., Shin, J. (2020). The economic value of sustainable recycling and waste management policies: The case of a waste management crisis in South Korea. Waste Management, 104, 220–227;

5.    Lưu Hồng Hạnh (2023). Hệ thống thu phí rác thải dựa trên khối lượng của Hàn Quốc: thách thức và giải pháp. Tạp chí Môi trường, số 10/2023;

6.    Lê Thu Hoa (2021). Trả phí theo lượng chất thải: kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam. Tạp chí Môi trường, số 6/2021.

TS. ĐOÀN THỊ THU HƯƠNG 
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10) năm 2024