
Một góc khu lấn biển ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
Đổi mới tư duy, phát triển kinh tế bờ biển
Lấn biển là một trong những hoạt động quan trọng để phát triển kinh tế đối với nhiều quốc gia trên thế giới để bảo vệ bờ biển, ứng phó biến đổi khí hậu và mở rộng diện tích tự nhiên phục vụ nhu cầu sinh sống của người dân cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Trên thế giới, hoạt động lấn biển được phân loại theo mục đích mà nó đem lại như hoạt động lấn biển phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng và các hoạt động lấn biển phục vụ mục đích kinh tế, mục đích khác,… Cụ thể như: Hoạt động lấn biển để xây đê kè chắn sóng, ngăn nước biển, phòng chống xói lở bờ biển; hoạt động lấn biển để xây cảng biển; hoạt động lấn biển để tạo quỹ đất (làm khu đô thị, khu dân cư mới, làm khu nghỉ dưỡng, khách sạn); hoạt động lấn biển để trồng rừng ngập mặn, làm khu nuôi trồng thủy sản; hoạt động lấn biển để tạo bãi tắm; hoạt động lấn biển để phục vụ quốc phòng, an ninh; hoạt động lấn biển để xây đảo nhân tạo và các mục đích khác,…
Thống kê và nghiên cứu nhiều tài liệu cho thấy, hoạt động lấn biển có từ rất sớm. Hà Lan bắt đầu lấn biển từ Thế kỷ 13. Nhật Bản lấn biển từ Thế kỷ 15. Chỉ tính riêng từ năm 2000 đến nay, diện tích lấn biển của thế giới đã đạt tới 2.500 km2, tương đương diện tích của Luxemburg.
Hoạt động lấn biển hiện nay đặc biệt phổ biến ở Đông Á, Trung Đông và Đông Nam Á, kế đó là Tây Âu và Tây Phi. Trung Quốc, Indonesia và Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất (UAE) là các quốc gia dẫn đầu về diện tích lấn biển. Chỉ riêng Thượng Hải đã có diện tích lấn biển lên đến 350 km2.
Trong số các nước trên, thế giới đã phải thán phục đất nước Hà Lan, vì lịch sử của Hà Lan từ bao thế kỷ nay vẫn gắn liền với lịch sử chống lại lũ lụt và bồi đất lấn biển. Con người Hà Lan đã rất kiên cường, nỗ lực để giành đất từ biển và cải tạo đất bằng cách xây dựng những tuyến đê nhằm ngăn nước biển và tạo nên những vùng đất cao ráo có thể sinh sống và trồng trọt.
Người Hà Lan rất tự hào về những kỳ công xây dựng ngăn giặc nước, lấn biển đáng kinh ngạc. Vì thế, ngoài hình ảnh là xứ sở hoa tulip và đất nước của cối xay gió, Hà Lan còn được biết đến là một quốc gia đã lập nên kỳ tích đắp đê lấn biển hàng đầu thế giới.
Hà Lan chỉ có diện tích gần 42.000 km2 và dân số gần 18 triệu người. Rất nhiều vùng đất nằm thấp hơn mực nước biển. Lịch sử của Hà Lan gắn chặt với cuộc chiến đắp đê và lấn biển để vượt lên trên biển cả. Hà Lan bắt đầu công cuộc khai hoang lấn biển từ Thế kỷ thứ 13. Đến nay, khoảng 17% diện tích của quốc gia này có được từ lấn biển. Rotterdam và Volendam là 2 điển hình lấn biển thành công của quê hương cối xay gió và công nghệ lấn biển polder.
Được biết, đất nước Hà Lan không thành lập một cơ quan đặc biệt quản lý hoạt động lấn biển mà là một mô hình hoạt động từ trên xuống dưới theo sự hướng dẫn của các cơ quan hàng hải quốc gia, các cơ quan quản lý các ngành công nghiệp khác nhau. Điều này cũng đã dẫn đến việc xuất hiện các vấn đề quản lý đa ngành và đa chức năng liên quan đến biển. Tuy nhiên, Hà Lan đã thành lập một Ủy ban điều phối liên bộ về Biển Bắc ở cấp quốc gia để điều phối các phòng ban và các cơ quan quản lý ở tất cả các cấp, bao gồm đại diện của 6 Bộ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy sự liên kết giữa các bộ phận khác nhau trong việc lập kế hoạch và quản lý, tạo thành mô hình quản lý phi tập trung không chỉ có thể khắc phục sự xung đột chức năng mà còn giúp cho việc thực hiện chính sách linh hoạt và hiệu quả hơn. Chính phủ Hà Lan tăng cường đầu tư và sử dụng đất lấn biển, thiết lập bảo hiểm, phúc lợi và các hệ thống liên quan khác để bảo vệ lợi ích kinh tế của các dự án lấn biển.
Mặt khác, vào năm 1990, một chương trình phục hồi bờ biển đã được đưa ra để khôi phục lại vành đai sinh thái ven biển bằng cách phục hồi bờ biển, nuôi dưỡng quần thể sinh vật, mở rộng lòng sông và đầm lầy. Chương trình cũng nghiên cứu các phương pháp để bắt đầu với công nghệ kỹ thuật môi trường và quản lý tích hợp để giảm thiểu tác động môi trường của hoạt động lấn biển. Ngoài ra, Hà Lan còn có một hệ thống khoa học kỹ thuật đánh giá tác động trước khi xây dựng dự án lấn biển thông qua các mô hình nghiên cứu biến động bờ biển và đánh giá định lượng về trầm tích đáy biển, lũ lụt và thủy triều, đánh giá hệ sinh thái tự nhiên.
Nhìn chung, các nước đều quan tâm tới quy hoạch, kế hoạch lấn biển; có những quy định chặt chẽ nhằm quản lý hoạt động lấn biển, đặc biệt là quản lý tránh những tác động tiêu cực về môi trường, quy định về việc sử dụng đất sau khi lấn biển. Bên cạnh đó, các nước cũng quan tâm tới những hướng dẫn về kỹ thuật, phương pháp lấn biển. Đây là những kinh nghiệm mà nước ta có thể học hỏi trong quá trình tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về lấn biển và triển khai vấn đề này trong thực tiễn.
Và cách tiếp cận mới
Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng và lợi thế lớn để mở rộng không gian phát triển ra biển, phục vụ phát triển bền vững. Địa hình nhiều sông ngòi giúp các đồng bằng châu thổ của nước ta được mở rộng tự nhiên do phù sa bồi đắp hàng năm. Hoạt động lấn biển trên thực tế tại Việt Nam đã và đang được thực hiện để thực hiện các dự án phát triển KT-XH tại các địa phương ven biển như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, TP. Hồ Chí Minh, Kiên Giang,…
Ở Luật Đất đai năm 2013 thì, hoạt động lấn biển chỉ được nhắc đến như một trong những hoạt động được nhà nước khuyến khích đầu tư. Khuyến khích đầu tư vào đất đai. Nhà nước có chính sách khuyến khích người sử dụng đất đầu tư lao động, vật tư tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào các việc như: Bảo vệ, cải tạo, làm tăng độ màu mỡ của đất; khai hoang, phục hóa, lấn biển, đưa diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước hoang hóa vào sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; phát triển kết cấu hạ tầng để làm tăng giá trị của đất.
Nội dung này được kế thừa mà quy định rõ nét hơn tại Luật Đất đai năm 2024, cụ thể Điều 8 Luật Đất đai năm 2024 như: Khuyến khích đầu tư vào sử dụng đất đai. Nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Bảo vệ, cải tạo, làm tăng độ màu mỡ của đất; xử lý đất, đất có mặt nước bị ô nhiễm, phục hồi đất bị thoái hóa. Lấn biển, đưa diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất bãi bồi ven sông, ven biển, đất có mặt nước hoang hóa vào sử dụng theo quy định của Luật này. Tập trung đất đai để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp quy mô lớn. Phát triển kết cấu hạ tầng để làm tăng giá trị của đất, phát triển công trình ngầm. Phát triển văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục, thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường.
Điều 190 Luật Đất đai năm 2024, theo đó, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng vốn, kỹ thuật, công nghệ thực hiện các hoạt động lấn biển; có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho nhà đầu tư thực hiện hoạt động lấn biển theo quy định của pháp luật.
Hoạt động lấn biển phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại khoản 2 Điều 190 Luật Đất đai năm 2024 như: Bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi ích quốc gia trên biển; phù hợp với quy định của luật khác có liên quan và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Dựa trên cơ sở đánh giá đầy đủ về kinh tế, xã hội, môi trường, bảo đảm phát triển bền vững, đa dạng sinh học, các yếu tố tự nhiên, tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Phù hợp với quy hoạch tỉnh hoặc quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch đô thị. Khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên biển; bảo đảm hài hòa lợi ích của tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động lấn biển và tổ chức, cá nhân khác có liên quan; bảo đảm quyền tiếp cận với biển của người dân, cộng đồng. Hoạt động lấn biển phải được lập thành dự án đầu tư hoặc hạng mục của dự án đầu tư theo quy định của pháp luật.
Luận bàn về vấn đề này nhiều chuyên gia bất động sản và kinh tế biển cho rằng, để phát triển kinh tế biển, mở rộng một không gian phát triển mới, Việt Nam cần có cách tiếp cận mới. Hướng ra biển, phát triển kinh tế biển một cách chiến lược phải trở thành một nhu cầu cấp bách, đồng thời là một cơ hội lớn cho sự trỗi dậy mang tính bùng nổ của Việt Nam.
Mặt tiền biển sẽ được đầu tư để phát triển các khu đô thị biển và du lịch biển. Bờ biển, đảo cũng phải phát triển mạnh. Phải đổi mới tư duy phát triển kinh tế bờ biển với một trong các điểm nhấn là ưu tiên xây dựng một số cứ điểm phát triển chiến lược mạnh ven biển. Những cứ điểm này là các tổ hợp phát triển lớn bao gồm: Đô thị biển, cảng biển lớn, khu kinh tế mở hay khu kinh tế tự do. Cần bỏ tư duy khai thác biển theo lối đánh bắt ven bờ, không dám vươn ra biển khơi, mà phải mang tư tưởng tìm kiếm và chinh phục đại dương. Việt Nam cũng nên học hỏi để khai thác lợi thế bờ biển dài để phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc gia.
Luật Đất đai năm 2024 đã có những bước đột phá để giải quyết vấn đề chồng chéo luật áp dụng với quy định: Khu vực biển được xác định để thực hiện hoạt động lấn biển trong quy hoạch, dự án đã được phê duyệt, chấp thuận thì việc quản lý, sử dụng khu vực biển để thực hiện hoạt động lấn biển như đối với đất đai trên đất liền (khoản 4 Điều 190). Như vậy, các khu vực biển đã được khoanh định để dự kiến lấn biển sẽ được quản lý như đất đai thông thường (khung pháp lý sẽ chuyển từ Luật Biển Việt Nam; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo sang áp dụng Luật Đất đai).
Luật còn quy định việc giao khu vực biển để lấn biển được tiến hành đồng thời với việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án (khoản 6 Điều 190), như vậy sẽ tránh phải thực hiện liên tiếp 2 thủ tục với 2 lần chi phí: Giao khu vực biển để lấn biển theo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (nhà đầu tư phải nộp tiền sử dụng khu vực biển), sau khi hoàn thành lấn biển lại làm thủ tục giao đất theo Luật Đất đai (nhà đầu tư phải nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất).
Việt Nam có lợi thế với hơn 3.200 km bờ biển nên việc xây dựng đô thị lấn biển không chỉ là một giải pháp để mở rộng quỹ đất mà còn chủ động ứng phó với thực trạng biển đang ngày một ăn sâu vào đất liền như hiện nay. Hơn nữa, chúng ta không chỉ lấn biển sát bờ mà còn cần tính đến cả các dự án cách xa bờ. Địa phương nào có điều kiện lấn biển thì nên lấn và nơi nào chưa làm thì nên nghĩ đến trong tương lai. Chúng ta cũng nên nghĩ đến việc kết nối các đảo nhỏ còn ít người ở, làm kè biển, đê biển, san lấp phát triển thành các điểm dân cư, khu đô thị mở, vừa có thêm quỹ đất vừa đảm bảo công tác an ninh quốc phòng tại các khu vực xa đất liền. Tuy nhiên, cần phải đặc biệt quan tâm lưu ý khi phát triển các dự án lấn biển là sự ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, đất ngập nước, biến đổi dòng chảy ở các khu vực gần cửa sông, đời sống của người dân ven biển và đặc biệt là biến đổi khí hậu trong Thế kỉ XXI.
BẢO TRÂM
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 8 năm 2024