
Tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể
Luật Tài nguyên, môi trường Biển và Hải đảo (TN, MT B&HĐ) đã có 08 Điều (từ Điều 26 đến điều 33) quy định về việc lập, điều chỉnh và tổ chức thực hiện Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Tuy nhiên, để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống quy hoạch quốc gia, ngày 24/11/2017 Quốc hội đã ban hành Luật Quy hoạch, theo đó, quy định về việc lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố, thực hiện, đánh giá, điều chỉnh quy hoạch trong hệ thống quy hoạch quốc gia; trách nhiệm quản lý nhà nước về quy hoạch, trong đó có Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Đồng thời, Quốc hội cũng ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch, theo đó, đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TN, MT Biển và Hải đảo (TN, MT B&HĐ) liên quan đến Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ.
Để thực hiện nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 25/QĐ-TTg ngày 23/4/2020 phê duyệt Nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Thực hiện Quyết định số 25/QĐ-TTg, Bộ TN&MT đã phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan xây dựng Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Ngày 29/12/2023, Bộ TN&MT đã có Tờ trình số 107/TTr-BTNMT trình Chính phủ xem xét phê duyệt Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tuy nhiên, do Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ cần căn cứ vào Quy hoạch không gian biển quốc gia. Vì vậy, ngày 14/5/2024, Chính phủ yêu cầu Bộ TN&MT tiếp tục rà soát Quy hoạch đảm bảo phù hợp với Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hiện nay, Bộ TN&MT đang trình Chính phủ xem xét phê duyệt sau khi cập nhật đảm bảo phù hợp với Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 139/2014/QH15 ngày 28/6/2024.
Xây dựng Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên
Đến nay, đã có 27/28 UBND tỉnh có biển xây dựng Kế hoạch thực hiện Chiến lược khai thác bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường B&HĐ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cho địa phương mình (tỉnh Sóc Trăng đang tiến hành xây dựng). Nhìn chung, Kế hoạch thực hiện Chiến lược khai thác bền vững tài nguyên, BVMT B&HĐ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 tại các địa phương đã bám sát mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ chiến lược mà Nghị quyết số 48/NQ-CP của Chính phủ đã đề ra, nội dung Kế hoạch thực hiện Chiến lược phù hợp với định hướng phát triển KT-XH, bảo vệ AN-QP của các địa phương.
Việc thực hiện Quyết định số 1570/QĐ-TTg trong giai đoạn từ 2013 đến 2022, qua thống kê trong 25 tỉnh/thành có biển, có hơn 350 đề án, dự án, nhiệm vụ về B&HĐ đã được triển khai thực hiện, đóng góp quan trọng vào việc quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường B&HĐ của các địa phương.
Kết quả thực hiện Quyết định số 1570/QĐ-TTg đã đạt được một số mục tiêu như: Đáp ứng một bước hạ tầng thông tin kỹ thuật cơ bản về tài nguyên và môi trường biển; cung cấp thông tin dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu; tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng bền vững và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, các mục tiêu về việc giảm nhẹ mức độ suy thoái, cạn kiệt tài nguyên và kiềm chế tốc độ gia tăng ô nhiễm môi trường, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, duy trì chức năng sinh thái và năng suất sinh học của các hệ sinh thái biển,… chưa đạt được như kỳ vọng.
Thực hiện Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản
Với quản lý, Bộ TN&MT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 28/QĐ-TTg ngày 07/01/2020 phê duyệt Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản TN, MT B&HĐ đến năm 2030. Đồng thời, Thủ tướng tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 216/QĐ-TTg ngày 19/02/2021 về quy chế phối hợp quản lý thực hiện Chương trình troïng ñieåm ñieàu tra cô baûn TN, MT B&HĐ.
Nhìn chung, các dự án triển khai thực hiện Quyết định số 28/QĐ-TTg giai đoạn 2020 - 2025 đều chậm. Đến thời điểm báo cáo có 02 dự án kết thúc, 13 dự án đã được phê duyệt và đang triển khai thực hiện, 07 dự án đã lấy ý kiến của các bộ, ngành liên quan và đang trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, 14 dự án còn lại đang trong quá trình xây dựng thuyết minh - dự toán. Nguyên nhân chủ yếu là nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp không đảm bảo theo phân kỳ thực hiện dự án đã được phê duyệt hoặc chưa được cấp; nhân lực thực hiện còn thiếu kinh nghiệm.
Tại khoản 3 Điều 13 Luật TN,MT BHĐ quy định các dự án, đề án, nhiệm vụ điều tra cơ bản (ngoài Chương trình trọng điểm) do bộ, ngành và UBND có biển lập, phê duyệt và tổ chức thực hiện theo quy định của pháp luật, trước khi phê duyệt phải lấy ý kiến của Bộ TN&MT về sự cần thiết, đối tượng, phạm vi, nội dung điều tra, tính khả thi, hiệu quả, tuy nhiên, đến nay chỉ có 01 dự án điều tra cơ bản được cơ quan chủ trì thực hiện có văn bản lấy ý kiến của Bộ TN&MT.
Tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học
Với nghiên cứu khoa học, công tác cấp phép cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam: Đến nay, Bộ TN&MT đã cấp 07 giấy phép cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài nghiên cứu khoa học trong vùng biển Việt Nam. Hoạt động nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài trong vùng biển Việt Nam đã góp phần nâng cao sự hiểu biết của chúng ta về tài nguyên, môi trường biển; tranh thủ được nguồn lực, trang thiết bị và nâng cao trình độ của các nhà khoa học của Việt Nam thông qua các chuyển nghiên cứu khảo sát của các tổ chức nước ngoài.
Về chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia về tài nguyên môi trường B&HĐ: Bộ KH&CN đã ban hành Quyết định số 1034/QĐ-BKHCN ngày 20/6/2022 phê duyệt Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030: “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển”, mã số: KC.09/21-30 với mục tiêu chung là cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để khai thác, bảo vệ, sử dụng hiệu quả tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững kinh tế biển. Hiện nay, Chương trình này đang được triển khai thực hiện.
Về các hoạt động nghiên cứu khoa học về TN, MT B&HĐ: Bộ TN&MT cũng ban hành riêng Chương trình KHCN cấp bộ tại Quyết định của Bộ trưởng ngày 04/09/2015 phê duyệt mục tiêu, nội dung nghiên cứu, sản phẩm chính và chỉ tiêu đánh giá Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp bộ “Khoa học và công nghệ về quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường B&HĐ giai đoạn 2016-2020”, mã số TNMT.06/16-20. Kết quả của Chương trình này đã cung cấp cơ sở phục vụ công tác tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường B&HĐ.
Ngoài ra, tính đến hết năm 2023, Bộ TN&MT đã đặt hàng/chỉ định thực hiện hoàn thành 42 đề tài khoa học và công nghệ với 4 nhóm nghiên cứu chính,30 tổng kinh phí là là 75.324 triệu đồng, phục vụ công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển nói chung, phục vụ thực thi Luật TN, MT BHĐ nói riêng.
Viện Hàn Lâm và Khoa học Công nghệ Việt Nam đã thực hiện 02 dự án khoa học và công nghệ trọng điểm về tiềm năng về dược liệu biển; 05 nhiệm vụ KHCN về biển với nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau như đa dạng sinh vật biển, dược liệu biển, địa chất biển,… Các kết quả nghiên cứu khoa học biển này đã đóng góp vào công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển.
Trong thống kê tài nguyên B&HĐ, Luật TN,MT BHĐ quy định bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh có biển trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thống kê các loại tài nguyên B&HĐ do mình quản lý theo quy định của pháp luật về thống kê, gửi báo cáo kết quả về Bộ TN&MT.
Trong thời gian qua, công tác thống kê tài nguyên B&HĐ đã được triển khai thực hiện, tài nguyên B&HĐ đã được các địa phương thực hiện thống kê cùng với thống kê ngành TN&MT, thống kê tỉnh hoặc báo cáo tổng hợp về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường B&HĐ hằng năm.
Việc thực hiện hoạt động thống kê tài nguyên B&HĐ đã cung cấp được số liệu về nguồn tài nguyên biển, là cơ sở để xây dựng, điều chỉnh chính sách, pháp luật về công tác quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường B&HĐ phù hợp với thực tiễn, thống nhất được công tác quản lý nhà nước về biển, hải đảo giữa các bộ, ngành, địa phương.
Quản lý tài nguyên hải đảo
Về công tác lập hồ sơ hải đảo, đến nay đã có 14/28 tỉnh có biển đã và đang thực hiện việc lập hồ sơ quản lý tài nguyên hải đảo, trong đó có 10 tỉnh đã hoàn thành công tác lập hồ sơ, đưa vào lưu trữ, quản lý gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Quảng Trị, Phú Yên, Thừa Thiên Huế, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang. 04 địa phương đang thực hiện gồm: Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hòa, Quảng Ngãi.
Đối với việc phân loại hải đảo: Bộ TN&MT đang xây dựng và đề xuất thực hiện dự án phân loại hải đảo, tuy nhiên việc phân loại hải đảo gặp khó khăn do số lượng hải đảo rất lớn, việc điều tra tổng thể các hải đảo là rất tốn kém, đồng thời chưa có danh sách đầy đủ các hải đảo để phục vụ cho việc phân loại hải đảo.
Đối với công tác điều tra cơ bản, đánh giá tổng thể, toàn diện về điều kiện tự nhiên, TN&MT hải đảo: đến nay, Cục B&HĐ Việt Nam đã điều tra, đánh giá tổng thể được 10 đảo/cụm đảo gồm: Cô Tô - Vĩnh Thực, Vân Đồn, Bạch Long Vỹ, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Côn Đảo, Hoàn Khoai, Thổ Chu, Quần đảo Trường Sa. Cục đã xây dựng đề xuất dự án tiếp tục thực hiện điều tra các đảo khác, cụ thể gồm: Đảo Trần, Ngọc Vừng, Long Châu, Hòn Mê, Hòn Mắt, Cù Lao Xanh, Hòn Chuối, Hòn Tre, Nam Du, Hòn Nghệ, Trường Sa Lớn, Song Tử Tây, Song Tồn. Tuy nhiên, do khó khăn về kinh phí nên các dự án chưa được thực hiện.
Quản lý hành lang bảo vệ bờ biển
Theo quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật, UBND tỉnh, thành phố có biển có trách nhiệm thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển thuộc phạm vi quản lý trong thời hạn 18 tháng kể từ khi Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.
Tính đến ngày 30/6/2024, đã có 27/28 tỉnh có biển phê duyệt Danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển. Theo thống kê sơ bộ, có biển khoảng hơn 560 khu vực ven biển, hải đảo được thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển với tổng số gần 1.700 km.
Trong số 27 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển đã phê duyệt Danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển, có 21 tỉnh đã xác định và phê duyệt chiều rộng, ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển trên địa bàn; còn 06 tỉnh đang trong quá trình xác định và phê duyệt ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển
Trong số 21 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển đã phê duyệt chiều rộng, ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển, có một số địa phương đã tiến hành và hoàn thiện việc cắm mốc giới hành lang bảo vệ bờ biển và ban hành quy định về quản lý, bảo vệ hành lang bảo vệ bờ biển trên địa bàn.
Thực hiện quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn, Bộ TN&MT đã ban hành các văn bản gửi UBND tỉnh có biển để đôn đốc, hướng dẫn việc triển khai thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển trên địa bàn. Việc xây dựng danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận của người dân, bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân ven biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; bảo vệ các công trình, dự án của nhà đầu tư; tạo hành lang pháp lý để thu hút đầu tư, phát triển kinh tế khu vực ven biển, hải đảo.
Quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ
Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ gồm các chương trình có phạm vi liên tỉnh do Bộ TNMT xây dựng và tổ chức thực hiện và các chương trình trong phạm vi quản lý của tỉnh do UBND các tỉnh có biển xây dựng và thực hiện. Một trong những căn cứ lập Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ là Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Tuy nhiên đến nay, Quy hoạch tổng thể khai thác và sử dụng tài nguyên vùng bờ vẫn đang trong quá trình xây dựng, chưa được phê duyệt, do đó các địa phương không có căn cứ để xây dựng Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ.
Hầu hết các địa phương ven biển đã lập Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ hoặc đã đề xuất xây dựng nhiệm vụ nhưng chưa có căn cứ pháp lý để phê duyệt, đây là nguyên nhân chính dẫn đến quy định về chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ chưa được thực hiện, gây khó khăn cho công tác quản lý tổng hợp TN, MT B&HĐ.
Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ liên tỉnh cũng đã được “khởi động” xây dựng nhưng cũng do căn cứ là Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ chưa được phê duyệt nên Nhiệm vụ cũng chưa được ban hành để triển khai xây dựng.
DIỆP ANH
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10) năm 2024