Một số giải pháp thúc đẩy dự báo, cảnh báo thiên tai dựa trên tác động ở nước ta

Thứ bảy, 1/2/2025, 11:26 (GMT+7)
logo Trong những năm gần đây công tác dự báo ở nước ta đã thực hiện rất chính xác, hiệu quả. Công tác dự báo dựa trên tác động và cảnh báo dựa trên rủi ro thiên tai, tuy nhiên ở một phương diện nào đó, chúng ta cũng cần nhận thức rằng, thực tế công tác dự báo vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức: Công nghệ, cơ sở hạ tầng, năng lực,..

Đảng và Chính phủ rất quan tâm đến công tác dự báo, cảnh báo thiên tai KTTV

Việt Nam là một trong những quốc gia thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nhiều loại hình thiên tai khác nhau, gây ra rất nhiều thiệt hại cả về người và của. Trong hơn 30 năm qua, thiên tai xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước đã gây ra nhiều tổn thất về người và tài sản. Bình quân mỗi năm, thiên tai đã làm chết và mất tích khoảng 500 người, bị thương hàng nghìn người, thiệt hại về kinh tế từ 1,0 - 1,5% GDP. Trong đó, bão và áp thấp nhiệt đới được xem như loại hình thiên tai gây thiệt hại nhiều nhất.

ảnh minh hoạ

Dưới tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai đang ngày càng trở nên mạnh về cường độ và nhiều về tần suất, đứng trước những thách thứ đó, công tác phòng chống thiên tai trở nên vô cùng quan trọng. Mặt khác, cùng sự phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu về thông tin KTTV ngày càng đòi hỏi cụ thể hơn, bám sát hơn đối với từng ngành nghề kinh tế - xã hội.

Để chủ động phòng, chống có hiệu quả thì việc dự báo sớm được các hình thái diễn biến của thiên tai có ý nghĩa rất quan trọng để giảm đến mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra. Những thảm họa này gây ra hậu quả tàn khốc đối với người dân, cơ sở hạ tầng và nền kinh tế của Việt Nam, đe dọa tính mạng và sinh kế của người dân. Dự báo dựa trên tác động hiệu quả và cảnh báo rủi ro thiên tai là rất quan trọng để giảm thiểu những thiệt hại, hậu quả của thiên tai này.

Hiện nay, Đảng và Chính phủ ta rất quan tâm đến công tác dự báo, cảnh báo thiên tai KTTV. Theo đó, đã có 02 Chỉ thị của Ban Bí thư liên quan trực tiếp đến hoạt động và công tác KTTV đó là: Chỉ thị số 42-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác ứng phó, phòng ngừa và khắc phục hậu quả thiên tai. Trong Chỉ thị số 42-CT/TW có 7 giải pháp thì giải pháp thứ 3 đó là “Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, theo dõi và giám sát thiên tai đảm bảo kịp thời đủ độ tin cậy, trong đó có việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, cấp độ rủi ro thiên tai phù hợp với đặc điểm thiên tai và điều kiện của từng vùng”; Tiếp sau đó là Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác KTTV, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là Chỉ thị được Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành riêng nhằm tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với công tác KTTV.

Liên quan đến rủi ro thiên tai từ năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 44/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết về cấp độ rủi ro thiên tai; Quyết định số 03/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về dự báo, cảnh báo và truyền tin thiên tai; 02 Quyết định này chưa đề cập đến dự báo, cảnh báo tác động. Từ tháng 7/2021, các Quyết định này đã được thay thế bằng Quyết định số 18/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về dự báo, cảnh báo, truyền tin thiên tai và cấp độ rủi ro thiên tai, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc cảnh báo sớm, cảnh báo chi tiết, tăng độ tin cậy của các bản tin. Quyết định này đã quy định cụ thể về nội dung, tần suất, thời gian ban hành, chế độ truyền phát các bản tin dự báo, cảnh báo và cấp độ rủi ro thiên tai của các loại hình thiên tai được quy định trong Luật Phòng, chống thiên tai như: bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, sụt lún đất do hạn hán, nước dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, gió mạnh trên biển, sương mù, mưa đá, rét hại, sương muối. Một số điểm mới trong quy định tại Quyết định số 18/2021/QĐ-TTg về rủi ro thiên tai như sau: quy định chi tiết, cụ thể hơn đối với cấp độ tủi ro thiên tai đối với từng loại thiên tai; bổ sung cấp độ rủi ro thiên tai trong nội dung bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai; quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc dự báo, cảnh báo và truyền tin thiên tai. Về cơ bản, các quy định về công tác dự báo, cảnh báo truyền tin thiên tai đã được quy định tương đối đầy đủ, nhưng do sự phát triển của kinh tế xã hội nên yêu cầu về công tác dự báo, cảnh báo thiên tai ngày càng cao, bên cạnh các yếu tố được cảnh báo, cần bổ sung quy định dự báo tác động đến các đối tượng sử dụng, đặc biệt là sự phối hợp của tổ chức, cá nhân trong dự báo tác động, cảnh báo rủi ro thiên tai.

Trước đây theo cách truyền thống, các bản tin dự báo, cảnh báo thường tập trung vào cường độ, diễn biến của thiên tai, thông báo cho các cơ quan quản lý và cộng đồng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặc dù, các thông tin có thể chính xác về mặt khoa học, tuy nhiên do chưa truyền đạt được cho cộng đồng biết cần phải làm gì để ứng phó hiệu quả với các rủi ro tiềm tàng mà thiên tai gây ra, nên công tác triển khai phòng chống chưa kịp thời, thiệt hại do thiên tai gây ra lớn. Vì vậy, thông tin sớm về những tác động của thiên tai ảnh hưởng đến địa phương là rất cần thiết, không chỉ giúp cho cộng đồng, mà còn cho các bộ, ban, ngành và các cơ quan khác nhau chủ động hơn trong công tác phòng chống và ứng phó với thiên tai.

Nhưng quá trình triển khai còn nhiều thách thức

Dự báo dựa trên tác động và dự báo tác động không còn là khái niệm mới ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện dự báo dựa trên tác động, dự báo tác động ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa phổ biến và hiệu quả. Quá trình triển khai dự báo dựa trên tác động còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Những thách thức này liên quan tới các vấn đề như nâng cao năng lực, chất lượng dự báo, đặc biệt là mức độ chi tiết và chính xác về không gian, thời gian xảy ra thiên tai; cập nhật, chia sẻ các số liệu hiện trạng sinh hoạt, đời sống người dân và các hoạt động kinh tế - xã hội tại khu vực có khả năng xảy ra thiên tai; các quy định cụ thể về phương pháp luận, cách thức tiến hành dự báo tác động cũng như đánh giá quy mô, mức độ tác động còn rất hạn chế...

ảnh minh hoạ

Một số các thách thức trong việc triển khai dự báo dựa trên tác động ở Việt Nam:

Tính sẵn có và chất lượng dữ liệu: Mức độ chính xác và tính sẵn có của thông tin, dữ liệu là rất quan trọng đối với dự báo dựa trên tác động. Đặc biệt dự báo dựa trên không chỉ cân các thông tin KTTV mà cần cơ sở dữ liệu liên quan tới đối tượng tác động cơ sở hạ tầng, người dân, các thông tin về kinh tế xã hội của các địa phương. Các dữ liệu này cần phải được cập nhật theo thời gian để có thể đánh giá một cách xác thực nhất các tác động của các thiên tai tới các lĩnh vực, đối tượng tại địa phương. Hiện nay mặc dù các thông tin về dự báo thời tiết, thiên tai hoặc các cơ sở dữ liệu về kinh tế - xã hội của các địa phương đã được thu thập qua các kênh dữ liệu khác nhau, tuy nhiên vẫn chưa có một hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, đồng bộ, phục vụ việc dự báo dựa trên tác động cho các lĩnh vực kinh tế xã hội, phòng chống thiên tai của các tỉnh địa phương.

Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin: Trong những năm gần đây, toàn bộ dữ liệu KTTV trong và ngoài nước hiện nay được tích hợp, tổ chức xử lý, lưu trữ, khai thác và cung cấp theo hướng tập trung, đồng bộ (dữ liệu được tập trung tại Trung tâm dữ liệu Ngành KTTV). Hiện nay, ngành KTTV Việt Nam đang xây dựng và phát triển hệ thống quản lý dữ liệu dùng chung (CDH) cho toàn ngành. Năm 2019, ngành KTTV đã triển khai hệ thống siêu máy tính CrayXC40 đầu tiên tại Việt Nam, cho phép năng lực tính toán đạt xấp xỉ 80TFLOPS và thực hiện bài toán dự báo thời tiết ở quy mô 2-3 km cho toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và Biển Đông, dự báo 03 ngày trong thời gian 30 - 40 phút. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, cùng với đó là nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của các địa phương ngày càng cao, cơ sở hạ tầng về dữ liệu cũng như các hệ thống tính toán dự báo cần phải tiếp tục được cải thiện. Việc ứng dụng các công nghệ của cuộc cách mạng 4.0 như big data, AI đang vừa là cơ hội vừa là thách thức cho Ngành KTTV trong thời gian tới, đặc biệt trong việc triển khai công tác dự báo, cảnh báo dựa trên tác động ở Việt Nam.

Năng lực và chuyên môn: Việc ứng dụng và phát triển các mô hình dự báo dựa trên tác động đòi hỏi kiến ​​thức và chuyên môn chuyên sâu, bởi vậy có thể cần thời gian đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhà khí tượng học, nhà thủy văn học và cán bộ quản lý thảm họa, thiên tai để sử dụng hiệu quả hệ thống mới. Việt Nam cần tăng cường đầu tư phát triển, đào tạo nhân lực và nghiên cứu khoa học để tăng độ chính xác của dự báo và tạo ra dự báo xác suất, giúp đánh giá rủi ro do thiên tai gây ra đầy đủ, khách quan và chính xác hơn.

Nhận thức của cộng đồng: Dự báo, cảnh báo dựa trên tác động là một vấn đề mới, bởi vậy một trong những thách thức trong việc dự báo dựa trên tác động là nâng cao nhận thức cho các cán bộ, người dân để từ đó có thể triển khai cũng như sử dụng các bản tin dự báo dựa trên tác động một cách hiệu quả phục vụ giảm nhẹ rủi ro thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội.

Phối hợp thể chế: Việc thiết lập hệ thống dự báo, cảnh báo dựa trên tác động đòi hỏi sự hợp tác giữa nhiều cơ quan chính phủ, bao gồm các cơ quan khí tượng KTTV, cơ quan quản lý thiên tai và các sở ban ngành liên quan khác. Đảm bảo giao tiếp và phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan này có thể là một thách thức. Việc thu thập và chia sẻ các dữ liệu về kinh tế - xã hội, dân cư, y tế, giao thông vận tải… giữa các Bộ ngành cần được tiến hành đồng bộ, tích hợp trực tuyến, thời gian thực, như vậy, việc dự báo tác động mới đảm bảo độ tin cậy và hiệu quả.

Ngôn ngữ và truyền thông: Việt Nam có sự đa dạng về ngôn ngữ và việc truyền đạt cảnh báo hiệu quả có thể đòi hỏi phải dịch thông tin sang nhiều ngôn ngữ và phương ngữ khác nhau để tiếp cận tất cả các cộng đồng dễ bị tổn thương. Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường hợp tác, tuyên truyền trong việc xây dựng các hướng dẫn sử dụng, tích hợp các thông tin dự báo tác động trong các kế hoạch, hành động ứng phó để quá trình ra quyết định được hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.

Tài chính và nguồn lực: Việc phân bổ đủ nguồn lực tài chính để hỗ trợ việc thiết lập và duy trì hệ thống dự báo và cảnh báo dựa trên tác động có thể là một thách thức đối với trung ương và địa phương. Bởi vậy, cần phải có các cơ chế phân bố nguồn ngân sách nhà nước cũng như thu hút các nguồn ngân sách tư nhân trong việc duy trì và nâng câp hệ thống dự báo và cảnh bảo dựa trên tác động. Các thông tin dự báo, cảnh báo dựa trên tác động có thể mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp, khối tư nhân trong việc phòng tránh bảo vệ tài sản, nâng cao hiệu quả sản xuất trong điều kiện thiên tai và biến đổi khí hậu. Bởi vậy, việc thu hút được nguồn vốn tư nhân để thực hiện dự báo, cảnh báo dựa trên tác động cho chính các lĩnh vực của họ là cần thiết.

Một số giải pháp thúc đẩy dự báo, cảnh báo

ảnh minh hoạ

Trong thời gian tới biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp và khó lường, dẫn đến các thiên tai sẽ có những diễn biến dị thường và có cường độ cao hơn trước, gây ra những thiệt hại nặng nề tới kinh tế - xã hội và tính mạng con người ở Việt Nam. Bởi vậy, các bản tin dự báo, cảnh báo dựa trên tác động càng có tính chi tiết, chính xác, kịp thời càng mang lại được hiệu quả trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, ứng phó với thiên tai, đảm bảo được an toàn tính mạng cũng như tài sản của người dân, đồng thời có thể giúp các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, doanh nghiệp có những kế hoạch phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Để có thể thúc đẩy được công tác dự báo, cảnh báo dựa trên tác động tại Việt Nam, một số các giải pháp có thể được đề xuất như sau:

Một là, dự báo, cảnh báo dựa trên tác động là tương đối mới không chỉ đối với Việt Nam mà cả các quốc gia trên thế giới. Một trong những vấn đề tiên quyết trong việc thúc đẩy dự báo, cảnh báo dựa trên tác động tại Việt Nam là cần phải xây dựng cơ chế chính sách đồng bộ, đưa dự báo, cảnh báo dựa trên tác động là một nhiệm vụ ưu tiên, then chốt trong thời gian tới từ cấp trung ương đến địa phương, phục vụ hiệu quả các mục tiêu giảm nhẹ rủi ro thiên tai và phát triển bền vững.

Hai là, dự báo, cảnh báo dựa trên tác động đòi hỏi nguồn dữ liệu tương đối lớn từ các bộ ngành địa phương đối với các lĩnh vực, đối tượng cụ thể. Đồng thời việc ứng dụng các bản tin dự báo trong công tác ứng phó với thiên tai đòi hỏi sự tham gia phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành và địa phương. Bởi vậy trong thời gian tới, cần thiết phải xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả trong công tác phối hợp giữa các Bộ ngành, địa phương nhằm triển khai hiệu quả công tác dự báo, cảnh báo dựa trên tác động.

Ba là, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ phục vụ công tác dự báo, cảnh báo dựa trên tác động. Trong thời gian tới ngành KTTV cần phải xây dựng được khung cơ sở dữ liệu cần thiết, từ đó phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng cơ sở dữ liệu đồng nhất, được cập nhật thường xuyên phục vụ hiệu quả các công tác dự báo, cảnh bảo dựa trên tác động

Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ: Đầu tư, phát triển nghiên cứu khoa học, áp dụng công nghệ tiên tiến, nhất là thành quả của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, chuyển đổi số, công nghệ số để nâng cao chất lượng dự báo cảnh báo nói chung và cảnh báo, dự báo dựa trên tác động nói riêng.

Năm là, tăng cường năng lực cho các cán bộ từ trung ương đến địa phương trong việc thu thập thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu và ứng dụng các bản tin về dự báo, cảnh báo dựa trên tác động tại các địa phương, các lĩnh vực kinh tế xã hội tại Việt Nam, nhằm tối ưu hóa hiệu quả của các bản tin dự báo, cảnh bảo dựa trên tác động trong công tác phòng chống thiên tai, phát triển kinh tế - xã hội.

Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài như nguồn vốn, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm quốc tế... trong dự báo, cảnh báo dựa trên tác động, đặc biệt nguồn lực trong hợp tác song phương hoặc đa phương.

Hoàng Thị Hoài Linh và các CS

Tổng cục Khí tượng Thủy văn, Bộ Tài nguyên và Môi trường