news

Một số thách thức của biến đổi khí hậu và an ninh nguồn nước

Thứ năm, 7/3/2024, 15:22 (GMT+7)
logo Xét trên toàn thế giới, biến đổi khí hậu sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo nên các chu kỳ tăng trưởng không bền vững. Biến đổi khí hậu tác động nghiêm trọng đến năng suất, sản lượng và làm giảm tốc độ tăng trưởng ở các nước chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Các nghiên cứu cũng cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân ở các nước đang phát triển chịu tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu sẽ giảm từ 1% đến 3%/năm.

Một số thách thức của biến đổi khí hậu và an ninh nguồn nước

Việt Nam đang phải đối mặt với các thách thức lớn, trong đó nổi lên 5 vấn đề cấp bách, nổi cộm, bao gồm: BĐKH; an ninh nguồn nước, an ninh môi trường biển bị đe dọa; ô nhiễm tại các khu vực trọng điểm và xuyên biên giới; suy giảm tài nguyên rừng và đa dạng sinh học. Các tác động của BĐKH ngày càng rõ nét, đặc biệt ở các tỉnh ĐBSCL và một số tỉnh miền núi. Biểu hiện rõ nét nhất của BĐKH là hiện tượng nước biển dâng, sạt lở, xâm nhập mặn, nhiệt độ tăng, ngập lụt, lũ quét, mưa bão cường độ mạnh,… đe dọa tới đời sống người dân và phát triển KT-XH. Nước biển dâng làm cho khu vực ven biển bị ngập, tác động lớn tới đời sống, sinh kế, sức khỏe của người dân,… Bên cạnh đó, nước biển dâng sẽ làm mất đất canh tác trong nông nghiệp, tác động trực tiếp tới an ninh lương thực, an ninh kinh tế, an ninh nguồn nước, gia tăng tình trạng đói nghèo, mất việc làm và di cư.

Trước tác động của BĐKH, tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn ở vùng ĐBSCL diễn ra khá nghiêm trọng. Tình trạng sạt lở bờ sông và xói lở bờ biển ở khu vực ĐBSCL ngày càng phức tạp và nghiêm trọng, tác động tới mọi mặt đời sống của người dân, dẫn tới tình trạng di cư, ảnh hưởng tới an ninh trật tự. Hiện nay, ĐBSCL có khoảng 550 điểm sạt lở với tổng chiều dài gần 800 km, chủ yếu diễn ra dọc sông Tiền, sông Hậu, Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Ở Đồng Tháp, tình trạng sạt lở bờ sông ngày càng nhiều và nguy hiểm, số lượng các điểm sạt lở tăng, vành đai sạt lở mở rộng, đặc biệt bờ sông Tiền thời gian qua có trên 25 điểm sạt lở nguy hiểm, gây thiệt hại lớn. Ước tính mỗi năm tỉnh Đồng Tháp mất từ 30 đến 50 ha đất ven sông do tình trạng sạt lở gây ra.

Biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ dẫn tới tình trạng mất chỗ ở và di cư ở một số khu vực bị ảnh hưởng nặng nề. BĐKH làm cho các hiện tượng tự nhiên gia tăng tính dị thường, đặc biệt như bão, lũ, lốc xoáy, hạn hán,… diễn ra với cường độ cao, khó lường, gây ra thảm họa tự nhiên, đe dọa tới tính mạng, sức khỏe con người, thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế và có thể gây mất ổn định xã hội,...

Biến đổi khí hậu làm an ninh nguồn nước đang gặp nhiều thách thức lớn và trở nên cấp bách. Sự khan hiếm, thiếu hụt nguồn nước do phụ thuộc vào các con sông xuyên biên giới là thách thức lớn nhất đối với an ninh nguồn nước ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Nguồn nước ngoại lai ở lưu vực sông Hồng chiếm 50%, còn ở lưu vực sông Mê Công chiếm đến 90% tổng khối lượng nước bề mặt. Dưới tác động của hoạt động khai thác, sử dụng nguồn nước ở thượng nguồn đã gây nên tình trạng bị động trong việc quản lý, điều tiết và sử dụng nguồn nước ở nước ta giữa các mùa, đặc biệt là mùa khô. Các đập thủy điện đã và dự kiến xây dựng ở các quốc gia thượng nguồn đã và đang làm thay đổi quy luật dòng chảy, thiếu nước mùa khô, thay đổi chất lượng nước,... trên sông Mê Công, gây nên tai biến bất thường như hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt, sói mòn, sụt lún.

Một số con sông bị xâm nhập mặn và hàm lượng bùn cát cao, nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tình trạng thiếu nước sinh hoạt và phục vụ sản xuất kinh doanh ở một số nơi khá căng thẳng, do tác động của BĐKH, phân bổ và nhu cầu sử dụng nước không đồng đều giữa các vùng, các mùa,... Theo thống kê, tổng lượng nước cần cung cấp cho các ngành kinh tế hiện tại khoảng 137-145 tỷ m3; đến 2030 là khoảng 150 tỷ m3. Trong khi đó, lượng nước sử dụng trong mùa khô chiếm phần lớn, tuy nhiên lượng nước cấp trong mùa khô khá hạn chế, dẫn đến xung đột trong sử dụng nước giữa các ngành trên một lưu vực sông và diễn ra ngày càng gay gắt, phức tạp. Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 khẳng định, bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được nhiều kết quả tích cực, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đời sống, sinh hoạt của người dân. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn đập, hồ chứa nước từng bước được hoàn thiện; nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngành nước được tăng cường. Công tác điều tra cơ bản, quy hoạch liên quan đến nguồn nước được quan tâm. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý, khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước, chấp hành pháp luật về tài nguyên nước, thuỷ lợi, phòng, chống thiên tai được thực hiện thường xuyên. Hợp tác quốc tế được mở rộng, nhất là với các quốc gia có chung nguồn nước với Việt Nam trong khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước xuyên biên giới,… Theo đó, Bộ Chính trị yêu cầu phải bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống; đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; mọi người dân, mọi đối tượng được tiếp cận, sử dụng nước công bằng, hợp lý. Chủ động tích trữ, điều hoà nguồn nước, khai thác, sử dụng hiệu quả đi đôi với bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước; ứng phó hiệu quả với các thảm hoạ, thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với BĐKH; bảo vệ môi trường, khắc phục tình trạng suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước,… 

Bộ Chính trị đề ra mục tiêu đến năm 2025, hoàn thành việc lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành liên quan đến nước; 95% hộ gia đình ở thành thị và 60% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu nước sinh hoạt, nước cho sản xuất,… Đến năm 2030, cân đối đủ nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội; 100% hộ gia đình ở thành thị và 80% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn. Đến năm 2045, chủ động được nguồn nước phục vụ dân sinh và phát triển KT-XH; bảo đảm hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn.

Trước tác động của BĐKH, Chính phủ Việt Nam nhận thức rõ về những thách thức phải đối mặt về BĐKH ngày càng tăng và đã ứng phó mạnh mẽ thông qua các chính sách và chương trình nghị sự về thể chế để xử lý tính dễ bị tổn thương với BĐKH ngày càng tăng và thúc đẩy con đường phát triển ít phát thải cácbon và tăng trưởng xanh. Năm 2013, BCH Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 24/NQ-TW về Chủ động ứng phó với BĐKH, Tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên và Bảo vệ môi trường. Nghị quyết xác định cuộc chiến chống lại BĐKH là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của cả hệ thống chính trị.

Chúng ta đã, đang tập trung xây dựng tính chống chịu trước những tác động của BĐKH và một số hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK; chú trọng tới phát triển ít phát thải các bon, sản xuất xanh, bao gồm cả đổi mới công nghệ, bảo tồn tài sản vốn tự nhiên và thúc đẩy lối sống xanh; xây dựng một nền kinh tế chống chịu với BĐKH và ít phát thải các bon. Tại Hội nghị lần thứ 26, Thủ tướng Chính phủ đã cùng 124 nguyên thủ quốc gia, đưa ra cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đạt mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 và tham gia nhiều cam kết, sáng kiến khác. 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng, giải quyết BĐKH phải có cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân, với những giải pháp đột phá, tổng thể, toàn diện, đổi mới và sáng tạo và kêu gọi cần khẩn trương hơn, hành động mạnh mẽ hơn và có trách nhiệm hơn nữa để hạn chế tối đa mức tăng nhiệt độ Trái đất. Thủ tướng cho rằng cần xác lập tầm nhìn mới, tư duy mới, quyết tâm mới, hành động quyết liệt cho phát triển xanh, phát thải ròng bằng “0”; đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng xanh công bằng và công lý. Trong đó, lấy người dân làm trung tâm, chủ thể và không để ai bị bỏ lại phía sau; kêu gọi các quốc gia phát triển, các tổ chức quốc tế tích cực hỗ trợ các nước đang phát triển, các nước kém phát triển về công nghệ xanh, tài chính xanh, quản lý xanh và đào tạo nguồn nhân lực xanh; xây dựng ngành công nghiệp năng lượng tái tạo và các hệ thống truyền tải điện thông minh.

PHƯƠNG ĐÔNG

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 23 năm 2023