
Cho đến nay, vẫn chưa có giải thích minh bạch để mọi người cùng hiểu giống nhau về bản chất của phạm trù tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (QKTKS). Ngoài ra, việc gặp khó khăn trong quá trình triển khai các quy định vào thực tiễn thể hiện ở chỗ, các cơ quan được giao ban hành các văn bản quy định chi tiết quy định của Luật Khoáng sản năm 2010 triển khai rất chậm so với quy định.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản, tiền cấp QKTKS (cả thông qua đấu giá QKTKS) là một khoản tiền rất lớn và phải nộp trước khi nhận giấy phép hoặc thu ngay Quý I hàng năm đã ảnh hưởng đến quá trình sản xuất.
Việc quy định hình thức đấu giá QKTKS, theo tác giả là chưa phù hợp với đặc thù của khoáng sản và chưa phù hợp với thực tế cũng đã ảnh hưởng đến quá trình triển khai quy định vào thực tiễn.
Một số trao đổi và góp ý
Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản: Về giải thích từ ngữ, mặc dù quy định về tiền cấp QKTKS có hiệu lực thi hành hơn 10 năm, song cho đến nay cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có được định nghĩa, giải thích phạm trù này một cách chính thức. Trong thực tế triển khai có rất nhiều ý kiến cho rằng, tiền cấp quyền chính là một khoản thuế tài nguyên với tên gọi khác.
Về mối quan hệ giữa tiền cấp QKTKS với quyền của tổ chức, cá nhân đã nộp tiền cấp QKTKS. Về mặt logic, một khi tổ chức, cá nhân đã nộp tiền cấp quyền khai thác đối với khu vực đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bàn giao với trữ lượng do nhà nước phê duyệt thì trong ranh giới đó họ có quyền khai thác theo các quy định như trong dự án đầu tư.
Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp khai thác khoáng sản bắt buộc phải lắp trạm cân, camera để kiểm tra, kiểm soát. Ngoài ra, theo quy định hiện hành của pháp luật về khoáng sản, nếu sản lượng sản phẩm khai thác vượt công suất còn bị phạt tiền mặc dù khối lượng quặng nguyên khai không tăng và còn nhiều vấn đề khác cần phải được phân tích, đánh giá.
Sự phù hợp quy định của Luật Khoáng sản số 60/2010/Q13 với các văn bản quy định chi tiết. Khoản 2 Điều 77 của Luật Khoáng sản năm 2010 quy định “Tiền cấp QKTKS được xác định căn cứ vào giá, trữ lượng, chất lượng khoáng sản, loại hoặc nhóm khoáng sản, điều kiện khai thác khoáng sản”. Kết quả nghiên cứu thời gian qua của chúng tôi cho thấy các yếu tố về chất lượng và về điều kiện khai thác hầu như không được đề cập đến trong các văn bản quy định chi tiết. Chính những nội dung này trên thực tế đã gây ra các bất cập khó khắc phục trong quá trình triển khai các quy định về tiền cấp QKTKS, có thể gây thất thu lớn cho NSNN, tạo ra sự bất công lớn giữa các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản.
Tiền cấp QKTKS làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến tổn thất tài nguyên khoáng sản. Trên thực tế, tiền cấp QKTKS là khoản chi của doanh nghiệp hoạt động khoáng sản, nên khi chi phí tăng, doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm các chi phí khác. Một trong những cách giảm chi phí có hiệu quả nhất đó là khai thác khu vực giàu, có điều kiện khai thác thuận lợi và bỏ lại phần quặng nghèo hơn, khó khai thác hơn.
Mặt khác, theo quy định hiện hành, tiền cấp QKTKS phải nộp trước khi nhận giấy phép khai thác. Quy định này làm giảm khả năng của doanh nghiệp trong đầu tư công nghệ tiên tiến. Tác động tiêu cực của việc này là dẫn đến tổn thất tài nguyên không mong muốn.
Quy định về việc điều chỉnh tiền cấp QKTKS “Tăng trữ lượng do trữ lượng khai thác thực tế lớn hơn trữ lượng tính tiền cấp QKTKS trong ranh giới khu vực cấp phép khai thác” thể hiện tính áp đặt không hợp lý trong quản lý nhà nước. Trong trường hợp trữ lượng giảm thì ai sẽ chịu tránh nhiệm đối với số tiền đã nộp quá so với thự tế phải nộp?
Thuế chồng thuế và kinh nghiệm của nước ngoài. Như đã đề cập ở trên, khái niệm tiền cấp QKTKS theo quy định hiện hành đến nay chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền định nghĩa hay giải thích là khoản thu gì? Trong thời gian qua rất nhiều ý kiến cho rằng tiền cấp QKTKS là một khoản thuế tài nguyên bổ sung.
Về kinh nghiệm nước ngoài, theo tác giả được biết là không có quy định tiền cấp quyền giống như Việt Nam. Có một số nước như Trung Quốc, Nga có quy định về phi mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được cấp QKTKS.
Đấu giá quyền khai thác khoáng sản: Theo quy định hiện hành, việc đấu giá được tiến hành ở khu vực chưa có kết quả thăm dò và ở khu vực đã thăm dò và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trữ lượng.
Trong khuôn khổ bài tham luận này, tác giả chỉ muốn đề cập đến 2 vấn đề có liên quan đến quy định về đấu giá QKTKS. Đó là: Tính khả thi và hiệu quả.
Tính khả thi của đấu giá QKTKS: Theo quy định hiện hành của pháp luật về đấu giá, thì đấu giá là hình thức bán tài sản. Như vậy, đấu giá QKTKS là nhà nước đem bán “QKTKS” trong khu vực đấu giá. Trong khi đó, theo quy định hiện hành, đấu giá được tiến hành ở khu vực chưa có kết quả thăm dò và ở khu vực đã có kết quả phê duyệt trữ lượng.
Thực tế cho thấy, với khu vực chưa có kết quả thăm dò lượng thông tin về khoáng sản cũng như các yếu tố kèm theo đang rất sơ sài, có thể nói là mơ hồ. Vì vậy, việc tiến hành đấu giá sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn cho cả nhà nước và doanh nghiệp trúng đấu giá. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 53 của Hiến pháp năm 2013, khoáng sản là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở hữu. Do đó, theo tác giả không nên đem khối tài sản của toàn dân đem ra đấu giá trong khi đang rất mơ hồ về giá trị của tài sản đó.
Việc đấu giá QKTKS tại khu vực đã có kết quả phê duyệt trữ lượng, theo tác giả không có tính khả thi vì trong thực tế hầu như không còn những khu vực như vậy, bởi vì các khu vực đã được phê duyệt trữ lượng đều đã có chủ.
Sự cần thiết của đấu giá QKTKS: Tài nguyên khoáng sản cũng như một số tài nguyên thiên nhiên khác, theo quy định của hiến pháp là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện chủ sở hữu. Vì vậy, để tài sản của toàn dân được sử dụng một cách có hiệu quả, phục vụ cho phát triển đất nước, cho lợi ích của toàn xã hội thì cần thiết phải tiến hành đấu giá. Việc cấp phép khai thác khoáng sản thông qua đấu giá là phương pháp tối ưu nhất trong việc lựa chọn nhà đầu tư có năng lực không chỉ về mặt tài chính mà còn có cả năng lực chuyên môn, năng lực về công nghệ, thị trường,... Tuy nhiên, đấu giá theo quy định hiện hành thì khó tìm được nhà đầu tư phù hợp cũng như đáp ứng được yêu cầu về sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên khoáng sản có hạn của đất nước.
Để triển khai đấu giá bảo đảm được các yêu cầu trên, theo tác giả nhà nước (cơ quan đại diện chủ sở hữu) cần phải biết được tương đối về giá trị khối tài sản của mình trước khi đem ra đấu giá. Để đạt được mong muốn này, Nhà nước cần chuẩn bị mỏ sạch.
TS. LÊ ÁI THỤ
Chủ tịch Hội Địa chất Kinh tế Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 20 (Kỳ 2 tháng 10) năm 2022