Ngành Chăn nuôi và Thú y nước ta, sau khoảng 8 thập kỷ kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh thành lập Nha Thú y - Mục súc - Ngư nghiệp (năm 1946) và Nha Chăn nuôi (năm 1950) đã có sự chuyển mình rõ nét, từ một nền chăn nuôi tiểu nông, nhỏ lẻ, phân tán, lạc hậu, tự cung tự cấp trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật theo hướng tập trung, hàng hóa chuyên nghiệp, hiện đại trong khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn thiện và hội nhập.
Lịch sử hình thành ngành Chăn nuôi và Thú y
- Ngày 14/11/1945, Hội đồng Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã quyết định thành lập Bộ Canh nông.
- Ngày 8/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 62-SL thành lập Nha Thú y - Mục súc - Ngư nghiệp, tiền thân của Cục Chăn nuôi và Thú y ngày nay.
- Ngày 14/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 69-SL, đổi tên Nha Thú y - Mục súc - Ngư nghiệp thành Nha Chăn nuôi, thuộc Bộ Canh nông.
- Ngày 11/7/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 125-SL về bài trừ dịch tễ dịch bệnh gia súc. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên về thú y của Việt Nam để các Bộ, ngành và địa phương tổ chức thực hiện.
- Ngày 26/4/1956, Liên Bộ Nông - Lâm, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính đã ban hành Nghị định số 03 LB/NĐ về việc thành lập Trạm Thú y (tiền thân của các Chi cục Thú y, Trạm Kiểm dịch động vật và Trạm kiểm dịch động vật cửa khẩu hiện nay) tại các tỉnh có chăn nuôi nhiều gia súc, trên các tuyến đường vận chuyển gia súc tại các đầu mối giao thông quan trọng, các địa điểm giáp biên giới và các bến xuất, nhập cảng.
- Giai đoạn 1956 - 1963, để đáp ứng nhu cầu sản xuất và phát triển chăn nuôi, cũng như công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, Bộ Nông - Lâm đã tổ chức lại Phòng Chăn nuôi - Thú y thuộc Vụ Sản xuất Nông nghiệp thành Vụ Chăn nuôi - Thú y.
- Năm 1966, Vụ Chăn nuôi - Thú y chia tách thành Vụ Chăn nuôi và Cục Thú y.
- Ngày 11/12/1986, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm ban hành Quyết định số 411/NN-TC-QĐ về tổ chức bộ máy công tác thú y, như: Ở Trung ương, Cục Thú y là cơ quan thuộc Bộ, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng thống nhất quản lý nhà nước về công tác thú y trong cả nước đối với các loại hình tổ chức và cơ sở kinh tế.
- Ngày 19/5/1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành Quyết định số 14/CT đổi tên Cục Thú y thành Cục Chăn nuôi - Thú y, trên cơ sở sáp nhập bộ phận chăn nuôi từ Cục Khuyến nông và Khuyến lâm.
- Ngày 4/2/1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thú y số 01/1993/PL-UBTVQH9. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định chi tiết về công tác thú y tại Việt Nam.
- Ngày 30/12/1993, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm ban hành Quyết định số 747/NN-TCCB/QĐ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cục Thú y.
- Năm 1995, tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa IX, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên cơ sở hợp nhất 3 Bộ: Bộ Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm và Bộ Thủy sản. Tổ chức bộ máy của Cục Thú y được giữ nguyên và trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Ngày 13/10/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 254/2005/QĐ-TTg thành lập Cục Chăn nuôi. Đây là bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự hoạt động độc lập trở lại của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về chăn nuôi và cũng là sự khẳng định một lần nữa của Đảng và Nhà nước về vai trò quan trọng của chăn nuôi với nền nông nghiệp và KT - XH của đất nước.
- Ngày 01/3/2025, Cục Chăn nuôi và Thú y được thành lập trên cơ sở hợp nhất giữa hai Cục Chăn nuôi và Cục Thú y theo Quyết định số 32/QĐ-BNNMT của Bộ Nông nghiệp và Môi trường (hợp nhất giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường) quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Chăn nuôi và Thú y.
Ngành Chăn nuôi và Thú y nước ta, sau khoảng 8 thập kỷ kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Nha Thú y - Mục súc - Ngư nghiệp (năm 1946) và Nha Chăn nuôi (năm 1950) đã có sự chuyển mình rõ nét, từ một nền chăn nuôi tiểu nông, nhỏ lẻ, phân tán, lạc hậu, tự cung tự cấp trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật theo hướng tập trung, hàng hóa chuyên nghiệp, hiện đại trong khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn thiện và hội nhập.
Trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Chăn nuôi và Thú y không chỉ đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm mà còn góp phần quan trọng vào phát triển KT - XH (đặc biệt là khu vực nông thôn). Trong 15 năm qua (năm 2010 - 2024), chăn nuôi là lĩnh vực có tốc độ tăng giá trị gia tăng cao và ổn định nhất trong nông nghiệp, đạt khoảng 4,5 - 6,5%/năm. Năng suất chăn nuôi ước tính tăng từ 5 - 20% tuỳ theo chỉ tiêu. Trong đó, sản lượng thịt các loại tăng hơn 2 lần (từ 4 triệu tấn lên hơn 8,28 triệu tấn), trứng tăng 3 lần (từ gần 6,4 tỷ quả lên 20,2 tỷ quả), sữa tươi tăng 4 lần (từ 0,3 triệu tấn lên 1,2 triệu tấn). Một số sản phẩm chăn nuôi đã bước đầu khẳng định giá trị và thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế như: Mật ong, lợn sữa, tổ yến, trứng vịt muối, sữa và thịt gà chế biến...
Nhiều lĩnh vực của ngành Chăn nuôi và Thú y hiện nay đã có được vị thế cao trong khu vực và trên thế giới. Chăn nuôi lợn đứng thứ 5 thế giới về đầu con, thứ 6 về sản lượng; đàn thủy cầm đứng thứ 2 thế giới (trên 100 triệu con); sản lượng sữa tươi nguyên liệu đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN; sản lượng thức ăn chăn nuôi (TACN) công nghiệp (21,5 triệu tấn) đứng số 1 khu vực Đông Nam Á và thứ 12 thế giới.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe vật nuôi, an toàn dịch bệnh và an toàn thực phẩm đã có nhiều bước phát triển vượt bậc. Chăn nuôi và thú y Việt Nam đã làm được điều mà thế giới chưa làm được đó là: Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới nghiên cứu và sản xuất thành công vắc-xin dịch tả lợn châu Phi; bảo vệ đàn vật nuôi trước các loại dịch bệnh nguy hiểm. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh có trên 75% các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở người có nguồn gốc từ động vật; đảm bảo an toàn dịch bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi tăng trưởng bình quân 4,5 - 6,5%/năm, không những phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước, hằng năm các sản phẩm chăn nuôi xuất khẩu đạt kim ngạch gần 1 tỷ USD. Đến nay, Việt Nam đã chủ động sản xuất được hầu hết các loại thuốc thú y với trên 70% số lượng, chủng loại vắc-xin, thuốc thú y, đáp ứng nhu cầu trong nước, đồng thời đã xuất khẩu sang hơn 45 quốc gia, thu về hàng trăm triệu USD hàng năm. Trong hợp tác quốc tế, chăn nuôi và thú y được tăng cường, có nhiều đóng góp tích cực cho khu vực và quốc tế trong kiểm soát bệnh truyền nhiễm qua biên giới, giảm thiểu nguy cơ kháng kháng sinh, được các tổ chức quốc tế, các quốc gia trong khu vực và thế giới ủng hộ cả về kinh phí, kỹ thuật, cũng như đánh giá cao về vai trò và vị thế của ngành. Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, hải quan một cửa... tạo thuận lợi, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp và người dân.
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi và thú y đã tạo sinh kế cho khoảng 6 triệu hộ trong khoảng 8 triệu hộ sản xuất nông nghiệp, góp phần thay đổi bộ mặt của khu vực nông thôn. Từ chỗ thiếu thực phẩm phải nhập khẩu, đến nay ngành Chăn nuôi đã phát triển không ngừng, không chỉ cơ bản đảm bảo nguồn cung thịt, trứng, sữa cho nhu cầu của hơn 100 triệu dân trong nước và hơn 10 triệu khách du lịch mỗi năm mà còn tham gia vào thị trường xuất khẩu, qua đó đóng góp khoảng 25 - 27% GDP nông nghiệp. Ở góc độ quốc gia, sản phẩm chăn nuôi không những góp phần bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm mà còn bảo đảm an ninh dinh dưỡng cho người dân.
Những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực chăn nuôi và thú y
Thời gian qua, đã có hơn 200 công trình nghiên cứu khoa học nổi bật về lĩnh vực chăn nuôi và thú y. 120 tiến bộ kỹ thuật (TBKT) về lĩnh vực chăn nuôi và thú y được công nhận. Về cơ bản, Việt Nam đã làm chủ công nghệ chọn tạo giống lợn, chọn lọc thành công dòng lợn nái có số con cai sữa đạt 30 con/nái/năm (tăng 13 con so với những năm trước đây); chọn tạo được giống lợn thịt thương phẩm tăng trọng nhanh (> 800 g/ngày), tiêu tốn thức ăn thấp (< 2,3 kg thức ăn/kg tăng khối lượng). Đã chọn tạo thành công các giống gia cầm chuyên thịt, chuyên trứng có năng suất, chất lượng cao. Bên cạnh đó, chúng ta đã nghiên cứu, chế tạo thành công nhiều loại vắc-xin cho vật nuôi với chất lượng tương đương so với nhập ngoại như vắc-xin lở mồm long móng, tai xanh, cúm gia cầm A/H5N1. Đặc biệt, Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới nghiên cứu và sản xuất thành công vắc-xin dịch tả lợn châu Phi.
Về giống vật nuôi: Giai đoạn 2013 - 2024, đã có 47 giống vật nuôi mới được công nhận. Hiện nay, có 59 giống có năng suất và chất lượng cao được đưa vào sản xuất, trong đó có 16 giống mới, 12 giống ngoại nhập và 31 giống lai tạo. Từ năm 2009 - 2024, đã có 87 TBKT, gồm 10 TBKT về giống lợn, 33 TBKT về giống gà, 24 TBKT về giống thủy cầm, 4 TBKT về trâu, bò, 14 TBKT về tằm, đà điểu, bồ câu và 2 TBKT về cừu...
Thức ăn chăn nuôi: Mặc dù có xuất phát điểm thấp hơn so với các nước trong khu vực và thế giới, nhưng sau hơn 30 năm phát triển ngành công nghiệp sản xuất TACN của Việt Nam đã trở thành một ngành công nghiệp chế biến với công nghệ hiện đại thuộc top đầu khu vực ASEAN và đứng trong top 10 thế giới về sản lượng TACN công nghiệp. Đến nay, cả nước có 267 cơ sở sản xuất TACN công nghiệp dạng hỗn hợp hoàn chỉnh với tổng sản lượng trung bình mỗi năm đạt 21 triệu tấn. Các TBKT về quy trình sản xuất thức ăn cho lợn, ngan và chế biến rơm cho trâu, bò được áp dụng rộng rãi trong cả nước. Cùng với đó là các nghiên cứu về sử dụng sản phẩm, phụ phẩm của ngành Trồng trọt, chế biến thủy sản, sản phẩm từ côn trùng dùng làm thức ăn chăn nuôi (TACN), nghiên cứu nguyên liệu đơn trong sản xuất TACN... không những góp phần tăng hiệu quả sử dụng mà còn giảm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, nước ta không có lợi thế lớn để sản xuất các nguyên liệu TACN ngoài lợi thế về sản xuất lúa, gạo nên việc sử dụng nguyên liệu nhập khẩu vẫn chiếm tỷ trọng lớn và đang là thách thức về giải pháp KH&CN đối với TACN của Việt Nam.
Công tác phòng, chống dịch bệnh động vật: Thời gian qua, chúng ta đã tổ chức triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống, nên đã thanh toán, loại trừ hoàn toàn bệnh dịch tả trâu, bò trên lãnh thổ Việt Nam vào cuối những năm 1970 của thế kỷ XX. Đây từng là bệnh rất nguy hiểm, ảnh hưởng rất lớn đến chăn nuôi trâu, bò, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam và tất cả các quốc gia trên thế giới. Ngành đã tổ chức kiểm soát tốt các loại dịch bệnh nguy hiểm, truyền lây giữa động vật và người, đặc biệt là bệnh nhiệt thán (trước đây đã từng làm chết hàng nghìn gia súc và hàng chục người chết mỗi năm); bệnh cúm gia cầm A/H5N1, A/H5N6 (đã từng làm chết 64 người và buộc tiêu hủy trên 65 triệu con gia cầm các loại), góp phần ngăn ngừa bệnh cúm A/H7N9 xâm nhập vào trong nước; bệnh dại ở động vật (làm hàng trăm người tử vong mỗi năm); đồng thời kiểm soát tốt nhiều loại dịch bệnh nguy hiểm như bệnh tai xanh, dịch tả lợn cổ điển, tụ huyết trùng, đóng dấu, Newcastle, Gumboro...
Công nghệ chuồng trại và quản lý môi trường chăn nuôi: Ngày nay, người chăn nuôi ngày càng ý thức được vai trò và tầm quan trọng của chuồng trại gắn với 5 yếu tố môi trường quan trọng, nhất là nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, thông khí và âm thanh phù hợp nhất với yêu cầu sinh lý của từng loại, giống, tuổi vật nuôi... Trong khoảng 5 năm trở lại đây, đã có 27 TBKT về quy trình xử lý biogas và các mẫu công trình khí sinh học, chế phẩm sinh học và công nghệ chuồng trại được công nhận. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ số đã được triển khai để giám sát sức khỏe vật nuôi, quản lý chuồng trại và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Nghiên cứu và sản xuất vắc-xin, thuốc thú y: Đến nay, Việt Nam đã chủ động sản xuất được trên 70% số lượng, chủng loại vắc-xin, thuốc thú y, đáp ứng nhu cầu trong nước, mà hằng năm còn xuất khẩu sang hơn 45 quốc gia, thu về hàng trăm triệu USD. Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới đã nghiên cứu và sản xuất thành công vắc-xin dịch tả lợn châu Phi (năm 2020). Hiện nay, Việt Nam có 3 loại vắc-xin đã được cấp phép sản xuất và thương mại như: NAVET-ASFVAC với chủng vi-rút G-Delta-I 177L; AVAC ASF LIVE với chủng vi-rút MGF (tháng 9/2020); chủng ASFV-G-I177L/LVR của Tập đoàn DABACO (năm 2025). Ngoài ra, Việt Nam đã sản xuất thành công vắc-xin phòng bệnh lở mồm long móng type O - một trong những bệnh nguy hiểm nhất ở gia súc; vắc-xin phòng hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (PRRS); đã khống chế một số bệnh lớn như: Bệnh dịch tả lợn cổ điển, bệnh Newcastle, bệnh Gumboro, bệnh Marek... những bệnh từng gây thiệt hại nặng cho ngành Chăn nuôi.
Năng lực chẩn đoán, xét nghiệm bệnh động vật của Việt Nam phát triển vượt bậc, đạt trình độ khoa học, kỹ thuật ngang tầm khu vực và trên thế giới: Hiện nay, các phòng thí nghiệm trong lĩnh vực chăn nuôi, thú y với cơ sở vật chất, trang thiết bị và đặc biệt đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn sâu, có đủ kiến thức, kinh nghiệm để chẩn đoán được tất cả các bệnh quan trọng, kể cả các bệnh có nguy cơ lây sang người như cúm gia cầm, dại, nhiệt thán, Corona,.. bằng các kỹ thuật hiện đại như PCR, Real-time PCR, giải trình tự gien. Hiện nay, tất cả các phòng thí nghiệm thuộc Cục Chăn nuôi và Thú y đều đạt tiêu chuẩn ISO 17025, đạt mức an toàn sinh học cấp độ II+, trong đó, đã có phòng thí nghiệm thuộc Trung tâm Chẩn đoán và Xét nghiệm thú y Trung ương I và II được đầu tư, nâng cấp để hướng tới đạt an toàn sinh học cấp độ III.
Quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực chăn nuôi và thú y: Hiện nay có 27 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) còn hiệu lực bao gồm: 6 QCVN lĩnh vực TACN, 2 QCVN về quản lý nước thải chăn nuôi, 1 QCVN về quản lý nước dùng cho chăn nuôi, 3 QCVN lĩnh vực quản lý thuốc và 15 QCVN về lĩnh vực vệ sinh thú y (VSTY), an toàn thực phẩm VSTY. Đối với Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) trong lĩnh vực chăn nuôi và thú y do Cục Chăn nuôi và Thú y quản lý, hiện nay có tổng số 399 TCVN trong đó: 155 TCVN lĩnh vực TACN, 53 TCVN lĩnh vực giống vật nuôi, 82 TCVN về lĩnh vực phòng chống dịch bệnh (PCDB), 84 TCVN về lĩnh vực quản lý thuốc thú y, 25 TCVN về lĩnh vực VSTY, an toàn thực phẩm...
Đàm phán thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi: Trong những năm vừa qua, công tác đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu động vật và sản phẩm động vật đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận, cụ thể là:
Thịt gà chế biến: Đã được xuất khẩu sang Nhật Bản, Hồng Kông (Trung Quốc) và 5 nước thuộc Liên minh kinh tế Á - Âu, Mông Cổ, Singapore.
Thịt lợn: Đã được xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông (Trung Quốc) và Malaysia.
Trứng và sản phẩm trứng gia cầm: Đã được xuất khẩu sang Singapore, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Campuchia, Myanmar, Lào, Mông Cổ và Úc...
Sữa và sản phẩm sữa: Việt Nam đã ký Nghị định thư về xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa sang Trung Quốc. Đến nay, Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã cấp phép cho 11 nhà máy của Việt Nam được xuất khẩu các loại sản phẩm sữa sang thị trường này. Ngoài ra, sữa và sản phẩm sữa chế biến sâu của Việt Nam đã xuất khẩu tới hơn 40 quốc gia.
Các sản phẩm thịt tiệt trùng: Việt Nam đã đàm phán thống nhất các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và mẫu giấy chứng nhận kiểm dịch xuất khẩu các sản phẩm thịt tiệt trùng từ Việt Nam sang Hàn Quốc. Hiện nay, đã có 2 doanh nghiệp Việt Nam được phép xuất khẩu sản phẩm sang thị trường này.
Mật ong và sản phẩm từ ong: Đã xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số thị trường khác. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất, với 80% khối lượng mật ong xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch trung bình đạt 60 - 70 triệu USD/năm.
Tổ yến: Nghị định thư xuất khẩu tổ yến sạch từ Việt Nam sang Trung Quốc đã được ký ngày 9/11/2022. Đến ngày 15/4/2025, Nghị định thư về xuất khẩu tổ yến (bao gồm cả yến sạch và yến thô) đã được ký thay thế cho Nghị định thư năm 2022. Hiện nay, đã có 13 doanh nghiệp Việt Nam được Trung Quốc cấp phép cho xuất khẩu sản phẩm này.
Bột cá và dầu cá: Đã có 25 doanh nghiệp Việt Nam được xuất khẩu bột cá, dầu cá sang Trung Quốc. Hiện Trung Quốc là thị trường nhập khẩu bột cá, dầu cá lớn nhất của Việt Nam, chiếm 90% tổng lượng bột cá, dầu cá xuất khẩu của Việt Nam.
Lông vũ: Có 34 doanh nghiệp sản xuất lông vũ của Việt Nam được phép xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Trung Quốc. Đây là thị trường nhập khẩu lông vũ lớn nhất của Việt Nam, chiếm 80% tổng lượng lông vũ xuất khẩu của Việt Nam.
Da trăn, sừng trâu, bò: Việt Nam đã đàm phán và xuất khẩu sang Trung Quốc, hiện có 8 doanh nghiệp Việt Nam đang xuất khẩu.
Khỉ và cá sấu nuôi: Đã hoàn thành đàm phán mở cửa thị trường Trung Quốc (Nghị định thư xuất khẩu ký ngày 6/6/2024 và 19/8/2024). Hiện có 1 doanh nghiệp xuất khẩu khỉ sang Trung Quốc.
Cám gạo: Mới đây (ngày 15/4/2025) chúng ta đã hoàn thành đàm phán ký Nghị định thư mở cửa thị trường Trung Quốc.
Với sự nỗ lực và phát triển không ngừng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành Nông nghiệp và Môi trường cũng như sự phát triển của đất nước, ngành Chăn nuôi và Thú y đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận và đã được tặng thưởng nhiều giải thưởng lớn, đó là: Đã đạt 3 giải thưởng Hồ Chí Minh; 4 giải thưởng cấp Nhà nước và nhiều giải thưởng khác...
Cục Chăn nuôi và Thú y