Nghệ An: Giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước

Thứ hai, 10/7/2023, 14:49 (GMT+7)
logo Tình trạng ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước ngọt ở Nghệ An đang ngày càng nghiêm trọng. Nguyên nhân bởi nhiều nguồn như: Chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, khai thác khoáng sản;... Xoay quanh vấn đề này, phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường có cuộc phỏng vấn ông Đào Duy Tâm, Trưởng phòng Tài nguyên nước, Biển đảo, Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu (Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nghệ An).

PV: Ông có thể đánh giá khái quát về tiềm năng và thế mạnh của tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay?

Ông Đào Duy Tâm: Tỉnh Nghệ An nằm ở trung tâm Bắc Trung bộ, diện tích 16.490.25 km2 - lớn nhất cả nước có tổng diện tích 16.493.7 km2. Đây cũng là tỉnh có nhiều thị xã nhất (Cửa Lò, Hoàng Mai và Thái Hòa) và huyện rộng nhất Việt Nam (Tương Dương - 2.811km2). 

Địa hình nghiêng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, với ba vùng sinh thái rõ rệt: Miền núi, trung du, đồng bằng ven biển. Trong đó, miền núi chiếm tới 83% diện tích. Hệ thống sông ngòi có độ dốc lớn, với 117 thác nước lớn, nhỏ. Tỉnh sở hữu khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận có diện tích lớn nhất Đông Nam Á - khu miền Tây Nghệ An. Đây cũng là khu vực duy nhất của miền Bắc và Bắc Trung bộ còn lại diện tích lớn rừng nguyên sinh đang được bảo vệ tốt, đặc biệt là khu vực dọc biên giới Việt Lào.

Về tài nguyên nước mặt: Nghệ An có mạng lưới sông suối khá dày đặc với các sông lớn như: Sông Cả, sông Hiếu, sông Nậm Mô, sông Giăng, sông Chu (sông Chu là nhánh cấp 1 của sông Mã) và có khoảng 16 con sông, suối nội tỉnh khác. Các sông nội tỉnh như: sông Hoàng Mai, sông Cấm, sông Bùng, Sông Thái, sông Dinh,...

Nghệ An là một trong các tỉnh có nguồn tài nguyên nước phong phú dồi dào. Tổng trữ lượng nước mặt trên 20 tỷ m3, bình quân trên 1ha đất tự nhiên có 13.064 m3 nước mặt. Tổng lượng nước mặt vận chuyển qua tỉnh khoảng 28.109m3/năm, trung bình 76.721.328m3/ngày, bao gồm nước sông, suối, hồ, đập, kênh,…. Nước mặt được cung cấp chủ yếu từ nước mưa (về mùa mưa) và một phần nước dưới đất. Đây là nguồn nước quan trọng cho sự phát triển của thảm thực vật và cũng chính là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến vi khí hậu, là một trong những nguồn nước chính cung cấp cho nước sinh hoạt và phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp trong tỉnh.

Nguồn nước mặt tại Nghệ An khá phong phú, đáp ứng được nhu cầu nước sinh hoạt và phục vụ sản xuất của người dân trong tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay môi trường nước mặt trên địa bàn tỉnh Nghệ An đang phải chịu tác động bởi nhiều nguồn thải như chất thải sinh hoạt, khu công nghiệp, hoạt động nông nghiệp, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy sản,… Cùng với quá trình công nghiệp hóa, khai thác đất rừng chưa theo quy hoạch, sự biến đổi khí hậu đang làm nghèo dần các nguồn nước, hệ thống thủy văn bị cạn kiệt cũng như xu hướng ô nhiễm nguồn nước mặt ngày càng gia tăng.

Tỉnh Nghệ An tăng cường quản lý bền vững tài nguyên nước

Thủy điện hồ Bản Vẽ

PV: Vấn đề quản lý, giám sát việc khai thác và sử dụng tài nguyên nước đã được Sở thực hiện như thế nào nhằm tránh thất thoát tài nguyên nước. Đã có bao nhiêu đơn vị, tổ chức, cá nhân lắp đặt hệ thống giám sát thưa ông?

Ông Đào Duy Tâm: Việc quản lý, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước được tăng cường, đẩy mạnh và được xác định là nền tảng quan trọng trong công cuộc chuyển đổi số cũng như vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước.

Công tác giám sát việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước được UBND tỉnh quy định trong Giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước và đảm bảo theo quy định tại Thông tư số: 17/2021/TT-BTNMT ngày 14/10/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước.

Theo quy định của Thông tư 17/2021/TT-BTNMT: UBND tỉnh có trách nhiệm xây dựng hệ thống hạ tầng mạng, máy chủ và phần mềm giám sát. Tuy nhiên, do nguồn kinh phí của tỉnh còn khó khăn nên chưa triển khai thực hiện việc đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng mạng, máy chủ và phần mềm giám sát tài nguyên nước. Sở Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Cục Quản lý Tài nguyên nước thông qua phần mềm của Cục để giám sát các đơn vị khai thác nước thuộc đối tượng cấp giấy phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Thực hiện quy định này, Sở Tài nguyên và Môi trường có văn bản đôn đốc các đơn vị khai thác nước thực hiện lắp đặt thiết bị giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước theo quy định của Thông tư 17/2021/TT-BTNMT.

Trên địa bàn tỉnh có các doanh nghiệp sau lắp đặp hệ thống giám sát việc khai thác và sử dụng tài nguyên nước theo quy định tại thông tư 17/2021/TT-BTNMT, cụ thể có 21 nhà máy thủy điện đã đi vào hoạt động với tổng công suất 930,9 MW, gồm: Bản Vẽ, Hủa Na, Khe Bố, Bản Cánh, Bản Cốc, Sao Va, Nậm Pông, Bản Ang, Nậm Mô, Nậm Nơn, Chi Khê, Đồng Văn, Ca Lôi, Nậm Cắn 2, Ca nan 1, Ca nan 2, Châu Thắng, Xóng Con, Nhạn Hạc A+B, Sông Quang, Khe Thơi.

Tỉnh Nghệ An tăng cường quản lý bền vững tài nguyên nước

Một nhà máy khai thác nước ngọt ở Nghệ An

PV: Vậy đâu là những bất cập trong quản lý, khai thác tài nguyên nước trên địa bàn thưa ông?

Ông Đào Duy Tâm: Bên cạnh đó vẫn còn không ít khó khăn như lực lượng UBND cấp huyện còn mỏng chưa chuyên sâu và công tác kiểm tra chấp hành pháp luật tài nguyên nước nói chung và tài nguyên nước dưới đất nói riêng chưa được thường xuyên và xử lý nghiêm theo quy định;

Ý thức người dân còn thiếu hiểu biết trong việc khai thác, bảo vệ tài nguyên nước dưới đất. Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước dưới đất lưu lượng ≤ 10 m3/ngày đêm không phải xin cấp phép dẫn tới hạn chế cho Sở Tài nguyên và Môi trường trong việc theo dõi giám sát việc khai thác, sử dụng nước dưới đất.

Đối tượng thuộc kê khai đăng ký khai thác nước dưới đất theo quy định tại Thông tư 27/2014/TT-BTNMT ngày 30/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường thuộc cấp huyện chưa được quản lý chặt chẽ, một số nơi dẫn đến tình trạng người dân khai thác tràn làn không được quản lý theo dõi. Kinh phí bố trí cho việc thực hiện quản lý tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh còn hạn chế.

Từ năm 2013 đến nay, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nghệ An tiếp nhận xử lý 870 giấy phép hoạt động tài nguyên nước, trong đó: 432 giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, 271 giấy phép khai thác nước dưới đất, 38 giấy phép thăm dò nước dưới đất;121 giấy phép khai thác nước mặt; 07 giấy phép hành nghề khoan giếng; 358 giấy phép chấm dứt hoạt động.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Nhất Nam – Đỗ Hùng