
Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh tham dự Phiên họp
Bảy vấn đề lớn trong việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật
Tại phiên họp thứ 25, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH, CN&MT) của Quốc hội Lê Quang Huy báo cáo tóm tắt 7 vấn đề lớn trong việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật TNN (sửa đổi). Cụ thể:
Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật: Thường trực Ủy ban KH, CN&MT đã rà soát, bổ sung các nội dung như tại khoản 1 và sửa đổi khoản 2 dự thảo Luật; giữ nội dung khai thác, sử dụng nước trong phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật. Đồng thời, không bổ sung nước khoáng, nước nóng thiên nhiên trong phạm vi điều chỉnh của Luật để tránh xáo trộn.
Về điều hòa, phân phối TNN: Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã chỉnh sửa, bổ sung khoản 1 Điều 35 về căn cứ, nguyên tắc; khoản 2,3,4 Điều 35 về giải pháp điều hòa, phân phối TNN; khoản 3,5 Điều 35 bổ sung quy định dự báo khí tượng, thuỷ văn, xu thế diễn biến lượng mưa, dòng chảy, lượng nước tích trữ tại các hồ chứa để dự báo lượng nước theo các thời kỳ trong năm nhằm chủ động kịch bản điều hòa, phân phối, bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên khai thác, sử dụng nước; bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ có liên quan và UBND các tỉnh trên lưu vực sông trong hoạt động điều hòa, phân phối TNN tại khoản 5 Điều 35.
Về khai thác, sử dụng TNN cho sinh hoạt, để tránh chồng chéo trong quy định pháp luật về quản lý nước sinh hoạt, Luật TNN chỉ quy định một số nguyên tắc về yêu cầu quản lý và đảm bảo chất lượng, số lượng nguồn nước cấp cho sinh hoạt tại Điều 27 và Điều 43 dự thảo Luật. Còn các nội dung cụ thể về khai thác, sử dụng, cấp nước cho sinh hoạt sẽ được điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện theo pháp luật chuyên ngành về cấp thoát nước.
Về đăng ký, cấp phép khai thác, sử dụng TNN: Dự thảo Luật đã bổ sung 04 điều quy định cụ thể về nguyên tắc cấp phép, đối tượng phải đăng ký, cấp phép khai thác sử dụng nước, điều kiện cấp phép tại các Điều từ 53 đến 56. Về quy mô để làm căn cứ cấp phép sẽ được Chính phủ quy định chi tiết để phù hợp với tính đặc thù của nước luôn biến động theo thời gian và không gian. Bên cạnh đó, dự thảo Luật đã luật hóa một số quy định đã được thực hiện ổn định thời gian qua trong Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật TNN hiện hành. Về thành phần hồ sơ, nội dung, trình tự, thủ tục cấp phép, gia hạn, điều chỉnh giấy phép,… sẽ giao Chính phủ quy định chi tiết để bảo đảm tính linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành. Về phí, lệ phí cấp phép sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí nên xin phép không quy định trong dự thảo Luật;…
Liên quan đến quy định về sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước: Dự thảo Luật đã bổ sung Điều 58 quy định về tuần hoàn và tái sử dụng nước thải ở 03 mức độ: Khuyến khích áp dụng; có lộ trình áp dụng và bắt buộc áp dụng, phù hợp với điều kiện phát triển KT-XH trong từng thời kỳ. Đồng thời, bổ sung chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có khai thác, sử dụng nước và xả nước thải có giải pháp sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước;…
Về trách nhiệm quản lý nhà nước về TNN, dự thảo Luật đã bổ sung quy định trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng; bổ sung trách nhiệm của Bộ Xây dựng, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; bổ sung cơ chế phối hợp giữa Bộ TN&MT với các Bộ có liên quan; trách nhiệm của UBND các cấp. Ngoài ra, về tổ chức lưu vực sông, dự thảo Luật đã bổ sung Điều 81 quy định chức năng của tổ chức lưu vực sông là tổ chức phối hợp liên ngành, hoạt động kiêm nhiệm;...
Tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của dự thảo Luật
Cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật TNN (sửa đổi), Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho rằng, để tiếp tục hoàn thiện dự án Luật, cần phải rà soát lại các điều khoản quy định chi tiết để luật hóa những nội dung có thể luật hóa được, tránh việc quy định để kéo quyền hạn về hết các Bộ nhưng không làm được gây ảnh hưởng đến các nơi khác. Theo đó, phải chống lợi ích nhóm, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, vì vậy, phải rà soát lại, hạn chế những quy định mang tính “xin - cho” liên quan đến giấy phép,…
Về phạm vi điều chỉnh, không bổ sung 2 loại nước nóng, nước khoáng thiên nhiên trong phạm vi điều chỉnh của Luật để tránh xáo trộn.
Về Chương I, những quy định chung, cân nhắc, bổ sung thêm khái niệm là nước thải; cân nhắc lại tên của Điều 3 nếu chỉ là “nguyên tắc quản lý TNN” liệu có bảo đảm thể hiện đầy đủ nội dung của luật vừa nói đến vấn đề quản lý, bảo vệ, điều hòa, phân phối, phát triển, khai thác, sử dụng TNN, phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra.
Về Chương II, điều tra cơ bản chiến lược quy hoạch TNN, nghiên cứu quy định rõ việc lấy ý kiến của đối tượng đang khai thác, sử dụng nguồn nước trong trường hợp quy hoạch TNN, quy hoạch lưu vực sông có làm thay đổi quyền sử dụng nước. Quy định rõ hơn về cơ chế, điều kiện sử dụng ngân sách để các tổ chức, cá nhân có thể cập nhật thông tin kết quả điều tra vào hệ thống TNN chung, trách nhiệm của bộ, ngành trong sử dụng kết quả điều tra TNN.
Về Chương III, bảo vệ TNN và phục hồi nguồn nước, nghiên cứu, xem xét bổ sung một điều mang tính nguyên tắc về bảo vệ nước mặt.
Dự thảo Luật chủ yếu quản lý bằng giấy phép. Các giấy phép cũng quan trọng nhưng đây là vấn đề tiền kiểm. Nên chăng, phải tăng thêm các quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí để quản lý, để hậu kiểm. Quản lý phải bằng tiêu chuẩn, quy trình để cho các đối tượng tự giác tổ chức thực hiện nhất là trong lĩnh vực TNN. Do đó, phải có quy chuẩn, tiêu chuẩn để tất cả mọi người dân cùng tham gia vào vấn đề quản lý, khai thác, bảo vệ, sử dụng.
Về Chương IV, điều hòa, phân phối, khai thác, sử dụng TNN, cân nhắc khái niệm “khai thác” và “sử dụng”, bên cạnh số ít các trường hợp khai thác và sử dụng gắn với nhau, phần lớn các chủ thể, đối tượng của “sử dụng” và “khai thác” là khác nhau nên nếu quy định chung là sẽ không rõ ràng và không phù hợp.
Về sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả, cần bảo đảm yêu cầu sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và đảm bảo tuần hoàn nước. Đồng thời, chỉnh lý khoản 2 Điều 65 dự thảo Luật theo hướng là các hoạt động cải tạo lòng, bờ, bãi sông, xây dựng công trình khai thác cát, đá sỏi và khai thác khoáng sản khác trên sông, hồ, hành lang bảo vệ nguồn nước, gây tác động đến lòng, bờ, bãi sông, hồ và chức năng bảo vệ hành lang nguồn nước đều phải thực hiện đánh giá tác động và có phương án bảo vệ phòng, chống sạt lở lòng, bờ, bãi, hồ, hành lang bảo vệ nguồn nước.
Ghi nhận dự thảo Luật được nghiên cứu tiếp thu chỉnh lý đến nay đảm bảo chất lượng tương đối tốt. Tuy nhiên, cần tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của dự thảo Luật. Do đó, Chủ tịch Quốc hội đề nghị cần tiếp tục xin ý kiến đối với dự án Luật TNN (sửa đổi) tại Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách.
PHƯƠNG CHI
Trích: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 16 (Kỳ 2 tháng 8) năm 2023