
Giai đoạn trước khi có Luật Khoáng sản năm 2010
Theo “Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW ngày 01/3/1996 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược tài nguyên khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng đến năm 2010” của Ban cán sự Đảng Bộ TN&MT năm 2011, trước năm 1990, tham gia hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản chủ yếu là do doanh nghiệp nhà nước hoặc tổ chức kinh tế tập thể thực hiện.
Sau khi Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VII) ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 01/3/1996 về định hướng chiến lược tài nguyên khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng đến năm 2010 và Luật Khoáng sản năm 1996 được ban hành đã có nhiều thành phần kinh tế tham gia thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản. Theo thống kê, số lượng doanh nghiệp hoạt động khoáng sản đã tăng nhanh từ 427 (năm 2000) lên đến trên 2.000 doanh nghiệp (năm 2009), có thể phân thành các nhóm sau:
Nhóm doanh nghiệp nhà nước: Đây là nhóm chiếm tỷ trọng lớn trong số các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khoáng sản. Thuộc nhóm này có các doanh nghiệp lớn của Nhà nước như: Tập đoàn Dầu khí thực hiện nhiệm vụ thăm dò, khai thác dầu khí; Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam thực hiện nhiệm vụ thăm dò, khai thác, chế biến than và các khoáng sản quan trọng như: Đồng, thiếc, bauxit, crômít, chì - kẽm,... Tổng công ty Thép Việt Nam thực hiện nhiệm vụ thăm dò, khai thác và chế biến quặng sắt. Thăm dò, khai thác, chế biến quặng apatit, khoáng sản sử dụng trong ngành hoá chất có Tập đoàn Hoá chất Việt Nam; thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản làm nguyên liệu xi măng là các đơn vị thuộc Tổng công ty CN Xi măng Việt Nam,... Có thể nói, các doanh nghiệp nhà nước đã và đang khai thác phần lớn các mỏ khoáng sản quan trọng, có quy mô lớn để cung cấp nguyên liệu khoáng cho các ngành kinh tế; đã có năng lực công nghệ, thiết bị, vốn đầu tư, kinh nghiệm trong khai thác, chế biến khoáng sản đồng thời đã xây dựng được đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, làm chủ được công nghệ thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản. Gần đây một số doanh nghiệp của Nhà nước đã chuyển sang hình thức công ty TNHH 1 thành viên, công ty cổ phần như các công ty than: Đèo Nai, Thống Nhất, Cao Sơn, Khe Chàm, Cọc Sáu, Núi Béo, Mông Dương, Hà Tu, Hà Lầm, Công ty kim loại mầu Nghệ Tĩnh, Công ty phát triển Khoáng sản 4.
Nhóm doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Nhóm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân) thường tham gia thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản làm vật liệu xây dựng (đá xây dựng, cát, sét gạch ngói), các mỏ khoáng sản kim loại quy mô nhỏ, trung bình, các mỏ khoáng chất công nghiệp, nguyên liệu gốm sứ,... để cung cấp nguyên liệu khoáng cho địa phương và khu vực.
Nhóm doanh nghiệp có số lượng lớn nhưng quy mô, năng lực công nghệ, thiết bị, vốn còn hạn chế. Tuy nhiên, thời gian gần đây cũng đã có một số doanh nghiệp có năng lực tham gia thăm dò, khai thác, chế biến một số mỏ quy mô trung bình như bauxít, khoáng sản nguyên liệu xi măng, chì - kẽm.
Nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Nhìn chung, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào lĩnh vực khoáng sản trong thời gian qua không nhiều, tập trung chính trong lĩnh vực khai thác, chế biến đá nguyên liệu xi măng và một số doanh nghiệp tham gia thăm dò, khai thác khoáng sản kim loại (vàng, titan, niken, đá hoa trắng).
Nhóm kinh tế tập thể, cá nhân, hộ gia đình (hộ kinh doanh): Nhóm đơn vị kinh tế tập thể (hợp tác xã, tổ hợp tác), hộ kinh doanh thường tham gia khai thác, chế biến khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (VLXDTT) như đá, cát, sét gạch ngói,... với quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ chủ yếu để cung cấp nhu cầu nguyên liệu khoáng sản trên địa bàn địa phương.
Tóm lại, có thể nói đến năm 2010, các tổ chức, cá nhân thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản đã phát triển mạnh cả về chất và lượng. Các doanh nghiệp lớn của nhà nước hoạt động khoáng sản đã thể hiện được vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực như: Dầu khí, than, kim loại màu, kim loại đen.
Kết quả hoạt động thăm dò khoáng sản giai đoạn 1990-2010
Từ năm 1990, Nhà nước đã có chủ trương không thực hiện công tác thăm dò khoáng sản bằng nguồn ngân sách Nhà nước. Vì vậy, từ năm 1996 đến 2010 công tác này chủ yếu do các tổ chức, cá nhân thực hiện bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Theo thống kê, từ tháng 9 năm 1996 đến hết năm 2009 đã có 640 đề án thăm dò trên 20 loại khoáng sản khác nhau được Bộ Công nghiệp, Bộ TN&MT thẩm định, cấp giấy phép để thực hiện. Ngoài ra, sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản có hiệu lực (2005), từ tháng 10/2005 đến hết năm 2009 có khoảng 350 đề án thăm dò khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường được thực hiện theo giấy phép của UBND cấp tỉnh. Kết quả thăm dò khoáng sản của các doanh nghiệp đã góp phần gia tăng đáng kể trữ lượng một số loại khoáng sản; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã thăm dò một số loại khoáng sản như vàng, quặng vonfram - đa kim, niken, titan sa khoáng, đồng - vàng. Đến nay phần lớn các mỏ đã thăm dò được chuyển sang giai đoạn khai thác và đang chế biến, sử dụng có hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Giai đoạn sau khi Luật Khoáng sản năm 2010 có hiệu lực đến nay
Theo Tổng cục Thống kê, số doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khoáng sản đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo ngành kinh tế, chia theo ngành kinh tế.
Tính đến năm 2020, với hơn 3.305 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác khoáng sản và có liên quan, mặc dù có giảm so với hai năm trước đó, song cũng cho thấy hoạt động khai thác khoáng sản ở Việt Nam khá phát triển và có đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung của đất nước. Về hoạt động thăm dò khoáng sản, thống kê của Trung tâm Thông tin, Lưu trữ và Bảo tàng địa chất cho thấy số lượng báo cáo thăm dò được nộp vào Trung tâm hàng năm.
Theo thống kê, tính đến 30/6/2021, cả nước đã cấp 3.182 Giấy phép thăm dò khoáng sản do cơ quan Trung ương và các địa phương cấp phép. Trong đó, số lượng giấy phép đối với khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ TN&MT là 332 Giấy phép thăm dò khoáng sản và số lượng giấy phép đối với khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND tỉnh là 2.850 Giấy phép thăm dò khoáng sản.
Nhìn chung, số lượng tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản trên địa bàn các tỉnh, thành phố phù hợp với phân bố khoáng sản chung của cả nước. Một số tỉnh có số lượng tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khoáng sản tương đối nhiều như: Quảng Ninh, Lào Cai, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Phú Thọ,... Tuy nhiên, cũng có địa phương không có hoạt động khoáng sản như Bạc Liêu hoặc có số lượng doanh nghiệp tham gia ít như: Sóc Trăng, Thái Bình, Nam Định, Cần Thơ, Đồng Tháp, TP. Hồ Chí Minh. Trong số 332 Giấy phép thăm dò khoáng sản do Bộ TN&MT cấp nêu trên có: 292 Giấy phép cấp mới, 38 Giấy phép gia hạn/chuyển nhượng/điều chỉnh trên địa bàn 63 tỉnh/thành phố để thăm dò trên 06 loại nhóm khoáng sản/50 loại khoáng sản khác nhau (gồm antimon; chì kẽm; apatít; nước khoáng; đá granite; puzolan; titanzircon; kaolin-felspat; vonfram-thiếc; vàng; đá vôi; đồng; đôlômit; molybden; graphit; đá dăm ốp lát; đá dăm kết núi lửa làm ốp lát; thạch anh; than; đá vôi xi măng; đá gabro làm ốp lát; quặng sắt; talc. Kết quả thăm dò một số loại khoáng sản đã được Hội đồng Đánh giá trữ lượng khoáng sản Quốc gia phê duyệt trữ lượng trong 05 năm qua (từ năm 2015 đến năm 2020) là đáng kể, làm gia tăng trữ lượng cho hoạt động khai thác khoáng sản. Nhìn chung, các Đề án thăm dò khoáng sản đều được thi công bởi các tổ chức đủ điều kiện hành nghề thăm dò khoáng sản theo quy định; được các đơn vị chuyên ngành thuộc Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam trước đây giám sát về kỹ thuật theo Đề án thăm dò đã được Bộ TN&MT phê duyệt.
Kết quả tổng hợp từ các Báo cáo quản lý nhà nước về khoáng sản hàng năm của các địa phương gửi về Bộ TN&MT cho thấy, tổng số Giấy phép thăm dò khoáng sản do các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cấp từ năm 2013 đến 2020 khoảng 2.850 giấy phép/2.500 tổ chức, cụ thể hàng năm như sau: Năm 2013 là 389 giấy phép, năm 2014 là 432 giấy phép, năm 2015 là 480 giấy phép, năm 2016 là 377 giấy phép, năm 2017 là 319 giấy phép, năm 2018 là 302 giấy phép, năm 2019 là 258 giấy phép, năm 2020 là 245 giấy phép với gần 40 loại hình khoáng sản đã được thăm dò khác nhau. Trữ lượng gia tăng so với trước khi có Luật Khoáng sản, một số khoáng sản có trữ lượng lớn như đá xây dựng, sét gạch ngói.
Nhìn chung, hoạt động thăm dò khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND cấp tỉnh tiếp tục được thực hiện theo quy định của Luật Khoáng sản, khắc phục được tình trạng cấp phép khai thác khoáng sản mà không có trữ lượng được phê duyệt, góp phần gia tăng tài nguyên, trữ lượng khoáng sản trên địa bàn các địa phương và khu vực; phục vụ quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản. Thông qua việc thăm dò khoáng sản làm VLXD thông thường, tại nhiều tỉnh đã khắc phục được tình trạng khai thác khoáng sản không có cơ sở trữ lượng khoáng sản được phê duyệt như: Cao Bằng, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Bình Định, Tuyên Quang, Hà Tĩnh, Nghệ An, Ninh Thuận, Quảng Nam.
Tận dụng sức mạnh của AI để phân tích và minh giải dữ liệu địa chất
Do phần lớn các thân quặng trên bề mặt dễ tìm đã được phát hiện, ngành khai thác mỏ đang phải quay sang tìm kiếm ở những khu vực có dấu hiệu đá quặng ít rõ ràng hơn và việc minh giải địa vật lý gặp nhiều khó khăn hơn. Giải pháp hiện nay là khoan thêm nhiều lỗ khoan cho phép xác định thân quặng hiệu quả hơn. Vấn đề cần quan tâm duy nhất (bên cạnh chi phí khoan) là phải biết chính xác vị trí lỗ khoan ngay từ đầu, đồng nghĩa với việc lựa chọn địa điểm thăm dò và kỹ thuật địa vật lý có vai trò vô cùng quan trọng.
Nhằm cải thiện lựa chọn địa điểm thăm dò, ngành khai thác mỏ đang tận dụng sức mạnh của AI để phân tích và minh giải dữ liệu địa chất. Một khi được xây dựng và đào tạo một cách thích đáng, các thuật toán học máy có thể xử lý các tập dữ liệu lớn, phức tạp và xác định các mẫu cũng như sự bất thường, từ đó chỉ ra sự hiện diện của tài nguyên khoáng sản.
Mỗi công ty sử dụng một mô hình kinh doanh khác nhau. Do phần lớn đất tiềm năng đã được phân chia, sự tương tác giữa chủ đất và nhà cung cấp công nghệ là một yếu tố quan trọng. Một cách tiếp cận phổ biến là thông qua hình thức liên doanh, tuy nhiên khi các công nghệ này chín muồi và các giải pháp AI trở nên đáng tin cậy hơn trong việc lựa chọn địa điểm thăm dò, chúng ta có thể thấy sự thay đổi này sẽ tiến xa hơn nữa theo hướng sản xuất hóa.
Sau khi lựa chọn được địa điểm thăm dò nhờ AI, giai đoạn tiếp theo trong công tác thăm dò cần thúc đẩy đổi mới là xác định đặc điểm địa chất của khu vực thăm dò. Hiện có nhiều công nghệ thâm nhập mặt đất và kỹ thuật địa vật lý mới có tiềm năng cải thiện đáng kể tính kinh tế và độ chính xác của thăm dò dưới sâu thông qua việc cải thiện xác định đặc điểm địa chất.
Mục tiêu của các công nghệ này là giúp nắm bắt được những gì dưới bên bề mặt mà không cần phải khoan lỗ. Các phương pháp địa hóa học, điện từ và cảm biến trọng lực hiện nay có hiệu quả trong phạm vi độ sâu 200-300 mét so với mặt đất, tuy nhiên, ngoài phạm vi này thì tín hiệu mà các công nghệ này cung cấp trở nên khó hiểu và diễn dịch hơn. Giả thuyết hiện tại là ở độ sâu hơn 300 mét, các phương pháp địa vật lý có nhiều triển vọng nhất.
Một số ví dụ bao gồm gắn công nghệ hiện có vào máy bay không người lái hoặc cải thiện các cảm biến và đầu dò sẵn có nhằm cho phép chụp ảnh độ phân giải cao và cải thiện thu thập dữ liệu để cung cấp cho các mô hình địa vật lý. Một cách tiếp cận địa vật lý đầy hứa hẹn khác sử dụng các kỹ thuật địa chấn để hỗ trợ xác định vị trí chính xác của các lỗ khoan. Mặc dù, công nghệ địa chấn đã được ngành công nghiệp dầu khí sử dụng từ đầu những năm 1900 nhưng đến nay, nó mới đang trong giai đoạn đầu áp dụng trong ngành khai thác mỏ. Do chi phí đắt đỏ và hiệu suất bấp bênh nên công nghệ này chủ yếu được áp dụng cho các dự án mở rộng “đất nâu” (các dự án sẵn có) với rủi ro lựa chọn mặt bằng là tối thiểu hoặc áp dụng bởi các công ty khai thác quy mô lớn hơn với khả năng tiếp cận vốn lớn hơn.
SƠN HOÀNG
Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 23 năm 2023 (Kỳ 1 tháng 12)