Ninh Bình: Làm tốt công tác quản lý tài nguyên nước

Thứ tư, 16/8/2023, 17:18 (GMT+7)
logo Sớm nhận rõ vai trò đặc biệt quan trọng của tài nguyên nước trong phát triển kinh tế - xã hội, cùng với việc “sát cánh” của Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND tỉnh Ninh Bình đã chủ động đưa ra các phương án, quy hoạch, kế hoạch, quyết định,… nhằm quản lý, khai thác hiệu quả tài nguyên nước,... Đó là những chia sẻ của ông Nguyễn Tiến Dũng, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình trong cuộc trò chuyện với phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường vừa qua.

PV: Ông có thể chia sẻ những tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên nước của tỉnh Ninh Bình?

Ông Nguyễn Tiến Dũng: Theo Báo cáo Quy hoạch Tài nguyên nước tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2015 - 2025, định hướng đến năm 2035, nội dung phân bổ và bảo vệ tài nguyên nước mặt đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số: 1145/QĐ-UBND ngày 31/12/2014.

Về nguồn nước mặt, Ninh Bình là tỉnh thuộc Nam Đồng bằng sông Hồng và nằm ở cửa ngõ cực Nam miền Bắc Việt Nam, có mạng lưới sông ngòi dày đặc, phân bố tương đối đều, mật độ sông suối trong tỉnh khoảng 0,6 - 0,9 km/km2. Toàn tỉnh có 811,2km chiều dài sông suối và 2.367,5km kênh mương.

Một số sông chính như: Sông Đáy, Hoàng Long, Bôi và một số sông nhỏ khác như sông Lạng, sông Vạc, sông Ân. Theo phân tích xu thế diễn biến tài nguyên nước tỉnh Ninh Bình cho thấy, tiềm năng về tài nguyên nước mặt của tỉnh Ninh Bình rất lớn với 2 hệ thống sông chính là sông Đáy và sông Hoàng Long. Cùng với hệ thống sông nội tỉnh thì tổng lượng nước mặt khoảng 32,5 tỷ m3. Trong đó, lượng nước quá cảnh từ thượng nguồn sông Đáy, sông Bôi và sông Hồng khoảng 31,1 tỷ m3 khoảng 96% tổng lượng nước; lượng nước sản sinh từ mưa khoảng 1,44 tỷ m3 chiếm 4% tổng lượng nước. Tổng lượng nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình năm 2020 vào khoảng 34,3 tỷ m3. Trong đó, lượng nước tự sản sinh từ mưa chỉ chiếm một lượng rất nhỏ 1,52 tỷ m3. Tổng lượng nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đến năm 2025 vào khoảng 34,7 tỷ m3. Trong đó, lượng nước tự sản sinh từ mưa chỉ chiếm một lượng rất nhỏ 1,55 tỷ m3.

Tài nguyên nước dưới đất tỉnh Ninh Bình đã được nghiên cứu, đánh giá từ những năm 1970, đến nay đã có 10 báo cáo được thực hiện. Tuy nhiên, các báo cáo được thực hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau nên không đồng bộ và còn hạn chế về thông tin, số liệu, dữ liệu. Việc tính toán, đánh giá trữ lượng nước dưới đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình mới được thực hiện đối với 4 tầng chứa nước gồm tầng Holocen, Pleistocen, Trias giữa (t2) và Trias dưới (t1), cụ thể như sau:

Tầng chứa nước lỗ hổng trong các trầm tích Holocen trên - qh2 Đây là tầng chứa nước thứ nhất kể từ mặt đất, có diện phân bố rộng khoảng 588 km2, chiều dày không lớn (chiều dày trung bình của tầng xác định từ 14 lỗ khoan khoảng 6,3m). Trữ lượng khai thác tiềm năng là 204.153,75 m3/ngày; Tầng chứa nước lỗ hổng trong các trầm tích Pleistocen-qp: Trữ lượng khai thác tiềm năng 68.637,12m3/ngày; Tầng chứa nước khe nứt, khe nứt Karst trong trầm tích Trias giữa, hệ thống Đồng Giao (t2): Trữ lượng khai thác tiềm năng: 304.202,30 (m3/ngày); Tầng chứa nước khe nứt, khe nứt karst trong trầm tích Trias dưới - t1: Trữ lượng khai thác tiềm năng: 94.279,7 (m3/ngày).

Có thể thấy rằng, nguồn nước dưới đất của Ninh Bình có mức độ giàu, nghèo, thuận lợi và khó khăn khác nhau theo từng tầng chứa nước, từng khu vực. Tuy nhiên, hiện nay nguồn nước sử dụng cho tưới tiêu và khai thác công nghiệp của Ninh Bình chủ yếu là từ nước mặt. Trữ lượng khai thác (đã được cấp phép) của nước dưới đất chỉ bằng 12% so với nước mặt.

Trên cơ sở tổng hợp số liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường, hiện nay trên địa bàn tỉnh có tổng số 92 giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, trong đó: 56 giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt (gồm 55 giấy phép thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND tỉnh và 01 giấy phép thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường); 36 Giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh cấp.

Ninh Bình: Làm tốt công tác quản lý tài nguyên nước

Ông Nguyễn Tiến Dũng, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình

PV: Công tác quản lý, giám sát việc khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước trên địa bàn được thực hiện như thế nào thưa ông?

Ông Nguyễn Tiến Dũng: Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua đã được Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh quan tâm, chú trọng, từng bước đưa công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước đi dần vào nền nếp. Từ năm 2013, Sở đã tham mưu UBND tỉnh lập, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch tài nguyên nước theo quy định của Luật Tài nguyên nước năm 2012, gồm: Quy hoạch tài nguyên nước giai đoạn 2015 - 2025, định hướng đến năm 2035 nội dung phân bổ và bảo vệ tài nguyên nước mặt; Quy hoạch bảo vệ tài nguyên nước dưới đất tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2012 - 2020; Quy hoạch phân bổ nước dưới đất và phòng chống tác hại do nước gây ra trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2035; Hướng dẫn, thẩm định hồ sơ, tham mưu UBND tỉnh cấp, gia hạn, điều chỉnh giấy phép khai thác nước mặt, nước dưới đất thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh; Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật đến cán bộ công chức làm công tác quản lý nhà nước nhất là cấp cơ sở, đăng tải trên cổng thông tin điện tử của Sở các nội dung liên quan đến quản lý tài nguyên nước, treo băng rôn khẩu hiệu hưởng ứng ngày Nước thế giới (22/3); Thực hiện việc cập nhật thông tin giấy phép tài nguyên nước trên hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu tài nguyên nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Năm 2021, Sở đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 492/QĐ- UBND ngày 12/5/2021 về việc phê duyệt đề cương và dự toán dự án khoanh định vùng hạn chế khai thác và các khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất trên địa bàn tỉnh, hiện tại dự án đã được triển khai và đang trong thời gian hoàn thiện trước khi trình phê duyệt theo quy định.

Năm 2022, Sở đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số: 1083/QD- UBND ngày 28/11/2022 phê duyệt nhiệm vụ điều tra, thiết lập hành lang bảo vệ và thực hiện cắm mốc hành lang bảo vệ các nguồn nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình (thời gian thực hiện 2022 - 2024); Quyết định số: 1078/QĐ-UBND ngày 28/11/2022 phê duyệt nhiệm vụ lập danh mục hồ ao, đầm không được san lấp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình (thời gian thực hiện 2022 - 2023). Hiện tại đang triển khai các bước đấu thầu lựa chọn đơn vị tư vấn để triển khai thực hiện.

Về nội dung xây dựng, lắp đặt hệ thống giám sát theo quy định tại Thông tư số: 17/2021/TT-BTNMT ngày 14/10/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường: Toàn tỉnh chưa có đơn vị nào lắp đặt hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Hiện nay, thực hiện Văn bản số: 166/BTNMT-TNN ngày 16/01/2023 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở đã tham mưu, báo cáo UBND tỉnh về nội dung này. Ngày 23/02/2023 UBND tỉnh đã ban hành Văn bản số: 53/UBND-VP3, trong đó giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với các sở, ngành có liên quan nghiên cứu lập đề cương và dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ xây dựng hệ thống giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

PV: Hiệu quả trong quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước đã thấy rõ. Vậy, ông có thể chia sẻ những khó khăn trong lĩnh vực này?

Ông Nguyễn Tiến Dũng: Một số bất cập trong công tác quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên Nước hiện nay trên địa bàn tỉnh đó là:

Còn có sự chồng chéo, không thống nhất trong quy định của pháp luật về đối tượng, phạm vi quản lý, trách nhiệm quản lý giữa lĩnh vực tài nguyên nước và lĩnh vực chuyên ngành có liên quan đến tài nguyên nước, cụ thể như: Phạm vi quản lý của Luật Tài nguyên nước 2012 là “quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra” với đối tượng quản lý là tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển (Nguồn nước là các dạng tích tụ nước tự nhiên hoặc nhân tạo có thể khai thác, sử dụng bao gồm sông, suối, kênh, rạch, hồ, ao, đầm, phá, biển, các tầng chứa nước dưới đất; mưa, băng, tuyết và các dạng tích tụ nước khác). Tuy nhiên, việc quản lý, vận hành các công trình, hệ thống công trình thủy lợi theo Luật Thuỷ lợi nhiều trường hợp đã đồng nhất khái niệm hệ thống công trình thủy lợi là bao gồm cả nguồn nước, dòng sông dẫn đến chồng chéo trong quá trình thực thi, không rõ đối tượng quản lý, trách nhiệm trong quản lý công trình khai thác, sử dụng nước và quản lý tài nguyên nước.

Hoặc, theo Luật Tài nguyên nước và Nghị định số: 201/2013/NĐ-CP của Chính phủ thì việc khai thác nước tại nguồn nước do Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh cấp phép. Nhưng, theo Điều 30 Luật Thủy lợi thì việc khai thác nước trong công trình thủy lợi sẽ thực hiện theo hình thức hợp đồng với tổ chức, cá nhân vận hành công trình thủy lợi. Thực tế, hầu hết các công trình thủy lợi có hoạt động khai thác nước thuộc trường hợp phải có giấy phép nhưng, mới chỉ có một số ít công trình thủy lợi có giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Trong khi lượng nước khai thác, sử dụng trong nông nghiệp hoặc nông nghiệp kết hợp phục vụ sinh hoạt, công nghiệp chiếm hơn 80% tổng lượng nước khai thác, sử dụng của cả nước.

Về nhận thức của doanh nghiệp, người dân đối với việc chấp hành các quy định của pháp luật về khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước còn nhiều hạn chế: Vẫn còn tình trạng khai thác, sử dụng nguồn nước mặt tự phát chưa được quản lý, kiểm soát; chưa tuân thủ đầy đủ chế độ báo cáo định kỳ về hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước; chưa lắp đặt thiết bị giám sát, đo lưu lượng nước khai thác, ...

Trong khi đó, nguồn nhân lực, nguồn lực trong lĩnh vực tài nguyên nước ở địa phương còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu. Đối với cấp Sở: Hiện có 01 phòng chuyên môn, mới được bổ sung, kiện toàn gồm 4 công chức và 1 viên chức trưng tập, tham mưu công tác quản lý nhà nước đối với 2 lĩnh vực (tài nguyên nước và tài nguyên khoáng sản); Cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước tại địa phương (cấp huyện và cấp xã) hầu như không có chuyên môn chuyên ngành, chủ yếu làm kiêm nhiệm (gồm cả 4 lĩnh vực đất đai, môi trường, nước, khoáng sản); Cơ sở hạ tầng trang thiết bị và mạng lưới quan trắc tài nguyên nước toàn tỉnh chưa được xây dựng đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý tại các cấp. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về tài nguyên nước chưa được quan tâm thường xuyên, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.

Ninh Bình: Làm tốt công tác quản lý tài nguyên nước

Ninh Bình đang làm tốt công tác quản lý tài nguyên nước

PV: Sở có ý kiến như thế nào về Dự thảo Luật Tài nguyên nước thưa ông?

Ông Nguyễn Tiến Dũng: Sau hơn 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo những chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội. Góp phần bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước và tạo hành lang pháp lý quan trọng để quản lý tài nguyên nước. Nhờ đó, từ cấp địa phương đến cấp trung ương thực hiện chức năng bảo vệ tài nguyên nước trên phạm vi cả nước, góp phần phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Tài nguyên nước năm 2012 cũng bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo phù hợp với thực tế, nâng cao hơn nữa hiệu quả hiệu lực, tháo gỡ khó khăn cho các Bộ, ngành, địa phương và các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Tài nguyên nước. Do vậy, việc xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) là rất cần thiết.

Tại tỉnh Ninh Bình, tháng 9/2021 và tháng 9/2022 thực hiện các văn bản chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường đã được UBND tỉnh giao là cơ quan chủ trì phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Xây dựng, UBND các huyện, thành phố và các đơn vị có liên quan nghiên cứu, đóng góp ý kiến vào dự thảo hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Kết quả tổng hợp các nội dung tham gia góp ý về cơ bản nhất trí cao với nội dung Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã được xây dựng.

Một số điểm mới trong Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), đã cơ bản giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn tại các địa phương đó là: Bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương; Bổ sung các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước nhằm nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; Bổ sung nội dung về xác định các vùng, tiểu lưu vực, nguồn nước thải lập kế hoạch chi tiết sử dụng nước trong quy hoạch tổng thể lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh, để giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể của từng lưu vực sông xảy ra ở tiểu lưu vực đang gặp phải như vấn đề hạn hán, ô nhiễm, suy thoái, lũ lụt,… tăng cường đảm bảo an ninh nguồn nước trên lưu vực. Đồng thời, quy định trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành địa phương, tổ chức cá nhân trong thực hiện xây dựng kịch bản ứng phó, điều hòa, phân bổ nguồn nước khi xay ra hạn hán, thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Đức Hùng