
Khẳng định hướng đi xanh, cam kết từ ngành
Trong bối cảnh kinh tế, khí hậu nhiều biến động, ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và vùng Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên nói riêng đang chuyển mình mạnh mẽ sang mô hình sản xuất xanh, tuần hoàn, giảm phát thải. Đây không chỉ là khẩu hiệu chính trị mà đã trở thành động lực phát triển cốt lõi được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (trước đây) và nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định trong Chiến lược tăng trưởng xanh 2021-2030.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (trước đây) Lê Minh Hoan từng nhấn mạnh, định hướng này khi trao đổi với báo chí: “Nông nghiệp xanh là xu thế không thể đảo ngược. Mọi sự thay đổi đều khó khăn, nhưng nếu không thay đổi chúng ta còn khó khăn hơn nữa”.
Trong một cuộc phỏng vấn chuyên đề của Làng nghề Việt, 2023, nguyên Bộ trưởng Lê Minh Hoan cũng phân tích sâu hơn về “tư duy xanh” trong sản xuất nông nghiệp: “Nói đến tư duy xanh, tôi nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta cần định vị và tường minh hơn về ý nghĩa của hai từ khóa này… Chúng ta thường nói nông nghiệp xanh, kinh tế xanh…, nhưng thật ra chữ xanh nó đi sau chữ nâu”. Đây cũng chính là tinh thần xuyên suốt trong Hội nghị sơ kết sản xuất trồng trọt, bảo vệ thực vật năm 2025 tại Đắk Lắk: ngành xác định phải “xanh hóa” toàn chuỗi - từ đồng ruộng, vật tư đầu vào, quy trình canh tác đến chuỗi cung ứng, tiêu thụ.
Theo định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nông nghiệp Việt Nam đang chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế, tập trung tạo ra “giá trị xanh” từ chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh: “Việt Nam đang đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, chuyển đổi từ ‘tư duy sản xuất’ sang ‘tư duy kinh tế’, hướng tới những giá trị xanh được tạo nên từ chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh”.
Trên cơ sở đó, các tỉnh trong vùng đã triển khai đồng bộ Đề án Phát triển quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM) phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, và Đề án giảm phát thải trồng trọt 2025-2035, tầm nhìn 2050 (ban hành 29/9/2025).
Hướng đi này không chỉ bảo vệ môi trường mà còn giúp nông sản Việt nâng hạng trên thị trường quốc tế, nơi tiêu chuẩn “carbon thấp” và “chứng nhận xanh” ngày càng quyết định giá trị hàng hóa.
Truy xuất nguồn gốc, nền tảng bền vững cho xuất khẩu
Nếu “xanh hóa” là con đường, thì “minh bạch, truy xuất nguồn gốc” chính là chiếc cầu giúp hàng Việt đi xa hơn.
Từ đầu năm 2025, quy định chống phá rừng (EUDR) của Liên minh châu Âu đã đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt, mọi sản phẩm cà phê, cao su, cacao, gỗ, dầu cọ… nhập vào EU phải truy xuất được nguồn gốc đến lô đất canh tác, đảm bảo không chuyển đổi từ đất rừng sau ngày 31/12/2020. Tháng 9/2025, Ủy ban châu Âu (EC) công bố phân loại rủi ro quốc gia, Việt Nam được xếp nhóm “rủi ro thấp”, nhờ nỗ lực lớn trong minh bạch hóa vùng trồng và cơ sở dữ liệu quản lý.
Theo báo cáo của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, vùng Tây Nguyên hiện đã số hóa hơn 137.000 ha cà phê, thu thập dữ liệu từ gần 120.000 hộ dân. Các tỉnh như Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng phối hợp cùng tổ chức IDH (tổ chức quốc tế phi chính phủ của Hà Lan) và doanh nghiệp để xây dựng bản đồ vùng trồng điện tử, tích hợp tọa độ, diện tích, chu kỳ trồng, sản lượng và tình trạng rừng.
Tại Lâm Đồng, hơn 25,8% diện tích cà phê đã có dữ liệu truy xuất hoàn chỉnh, trong khi Đắk Lắk đạt gần 94.000 ha khảo sát, hướng tới mục tiêu 100% vào năm 2026. Song song đó, Việt Nam tiếp tục được đánh giá cao khi chủ động chuẩn bị cho EUDR dù EU liên tục lùi thời hạn áp dụng: “Việt Nam là một trong số ít quốc gia đang chủ động chuẩn bị dữ liệu vùng trồng và cơ chế truy xuất nguồn gốc cho nông sản chủ lực, dù EUDR có thể hoãn đến năm 2026”. Nhờ nền tảng truy xuất này, hàng nông sản Việt, đặc biệt là cà phê, hồ tiêu, cao su, sầu riêng, có cơ hội duy trì vị thế xuất khẩu trong nhóm 10 quốc gia hàng đầu thế giới.
Riêng 9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đạt kết quả ấn tượng: (1) Cà phê: 1,2 triệu tấn, 6,98 tỷ USD (+11,1% lượng; +61,4% giá trị). (2) Rau quả: 6,22 tỷ USD (+10,3%). (3) Hồ tiêu: 188.100 tấn, 1,27 tỷ USD (+28,7% giá trị). (4) Gạo: 7 triệu tấn, 3,55 tỷ USD. (5) Cao su: 1,3 triệu tấn, 2,32 tỷ USD. (6) Điều: 552.300 tấn, 3,75 tỷ USD.
Theo nguồn tin từ Bộ Công thương, tháng 9/2025, kim ngạch rau quả đạt kỷ lục 1,3 tỷ USD, chủ yếu nhờ chuối, sầu riêng, dứa và xoài chế biến. Tuy nhiên, đầu năm 2025, xuất khẩu rau quả từng giảm nhẹ do Trung Quốc siết kiểm soát vàng O, Cadimi trong nông sản. Việc khẩn trương chuẩn hóa mã số vùng trồng (MSVT), cơ sở đóng gói (CSĐG) và truy xuất điện tử chính là giải pháp giúp doanh nghiệp tránh rủi ro bị kiểm tra gắt, đảm bảo thông quan nhanh, đồng thời nâng giá trị hàng xuất khẩu.
Tinh gọn bộ máy, phân quyền điều hành để phát triển
Sau đợt sắp xếp đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 60-NQ/TW (12/4/2025), nhiều tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên chuyển sang mô hình chính quyền hai cấp, dẫn đến thay đổi sâu sắc trong hệ thống quản lý trồng trọt và bảo vệ thực vật.
Tại Hội nghị Đắk Lắk 08/10/2025, nhìn chung các đại biểu đều nhấn mạnh, để thực hiện hiệu quả các mục tiêu xanh, dữ liệu vùng trồng, và EUDR, bộ máy ngành trồng trọt phải tinh gọn, phối hợp nhịp nhàng và thống nhất thông tin từ xã lên tỉnh.
Trước đó, tại Hội nghị sơ kết ngành hồi tháng 3/2025, nguyên Bộ trưởng Lê Minh Hoan từng chỉ rõ: “Đề nghị các cơ quan, đơn vị thảo luận tập trung vào hai vấn đề chính: giải pháp tăng trưởng theo mục tiêu năm 2025 và nhanh chóng ổn định tổ chức, hoạt động hiệu quả sau sắp xếp, hợp nhất”. Phát biểu này nêu rõ tinh thần hành động, không chỉ tái cấu trúc về tổ chức, mà còn tái cấu trúc về cách điều hành, cách làm việc giữa Trung ương và địa phương.
Từ tháng 5/2025, 5/6 tỉnh trong vùng đã thành lập Chi cục Trồng trọt & Bảo vệ thực vật trực thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường. Một số tỉnh thiết lập Trạm liên xã, số khác giao nhiệm vụ cơ sở cho Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp hoặc Trung tâm Khuyến nông. Mặc dù mô hình tổ chức đa dạng, nhưng mục tiêu chung là đưa giám sát trồng trọt, bảo vệ thực vật về gần nông dân nhất, để cảnh báo dịch hại kịp thời, giảm sử dụng hóa chất, tăng năng lực quản lý vùng trồng.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã yêu cầu chuẩn hóa quy trình phối hợp Chi cục - UBND xã - HTX và đẩy mạnh số hóa báo cáo trồng trọt thông qua phần mềm đồng bộ toàn ngành. Theo kế hoạch, đến cuối năm 2026, 100% báo cáo vùng trồng sẽ cập nhật trên hệ thống điện tử thống nhất toàn quốc.
Tổng quan kết quả sản xuất 2025: bền bỉ và tăng trưởng
Năm 2025 chứng kiến nông nghiệp vùng Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên vượt qua nhiều thách thức từ thiên tai, biến đổi khí hậu, chi phí đầu vào và áp lực thị trường quốc tế. Song điều ấn tượng là dù trong bối cảnh đó, sản xuất vẫn thể hiện rõ tinh thần bền bỉ và nỗ lực tăng trưởng, kết quả đạt được không chỉ duy trì mà còn mở rộng trên nhiều mặt.
Lúa vẫn là trụ đỡ quan trọng. Năm 2025, vùng đạt 785.200 ha, năng suất bình quân 64,9 tạ/ha và sản lượng 5,0982 triệu tấn, tăng 136,9 nghìn tấn so với năm 2024. Ở vụ Đông Xuân 2024-2025, diện tích 330,6 nghìn ha, sản lượng 2,2488 triệu tấn, tăng 16,8 nghìn tấn dù năng suất giảm nhẹ 0,4 tạ/ha do thời tiết không thuận lợi khi lúa trỗ phơi; Vụ Hè Thu 2025 ghi nhận diện tích 312,2 nghìn ha, năng suất 66,4 tạ/ha, sản lượng 2,0719 triệu tấn, tăng 108,9 nghìn tấn so cùng kỳ; Vụ Mùa 2025, diện tích 142,4 nghìn ha, năng suất 54,6 tạ/ha, sản lượng 777,6 nghìn tấn, tăng 11,1 nghìn tấn, mặc dù diện tích có giảm nhẹ do chuyển đổi đất trồng. Sự ổn định và tăng trưởng dù khiêm tốn trong cây lúa phản ánh khả năng điều chỉnh thời vụ, quản lý nước và áp dụng các kỹ thuật giảm giống, tăng hiệu quả, giảm chi phí.
Cây ngắn ngày khác nổi bật với kết quả khả quan: Sắn là “ngôi sao” mùa vụ, đạt 5,2041 triệu tấn trên 254,1 nghìn ha, tăng 401,6 nghìn tấn so năm trước; Mía vững đà với sản lượng 7,0184 triệu tấn, diện tích 101,7 nghìn ha, tăng 179,3 nghìn tấn; Rau màu cũng thể hiện tăng trưởng đều: 213,9 nghìn ha cho sản lượng 5,4596 triệu tấn, cao hơn năm trước; Các cây như ngô, đậu, khoai lang cũng duy trì kết quả khả quan, góp phần bù đắp những rủi ro cục bộ do thời tiết bất thuận. Nhìn chung, cây hàng năm trong vùng không chỉ giữ vững diện tích mà còn gia tăng năng suất và sản lượng, tạo nền tảng vững chắc cho chuỗi giá trị nông sản.
Cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, hồ tiêu, điều và chè tiếp tục giữ vai trò trụ cột: (1) Cà phê: diện tích 676,5 nghìn ha, sản lượng 1,9894 triệu tấn (tăng 80,6 nghìn tấn). (2) Cao su: 280,3 nghìn ha, với khoảng 361,8 nghìn tấn, ghi nhận mức tăng 27,9 nghìn tấn nhờ năng suất cải thiện. (3) Hồ tiêu: diện tích 74,4 nghìn ha, sản lượng 198,2 nghìn tấn (tăng 12,1 nghìn tấn). (4) Điều và chè cũng đạt sản lượng tăng nhẹ do chăm sóc và điều kiện sinh trưởng thuận lợi.
Đáng chú ý, năm 2025 cũng là năm tích cực cho cây ăn quả, lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao và có chi phí vốn đầu tư lớn nhưng khả năng thu hồi giá trị cao: Tổng diện tích cây ăn quả đạt 255,6 nghìn ha, sản lượng 2,9207 triệu tấn, tăng 385,5 nghìn tấn so năm trước. Trong đó, sầu riêng tăng mạnh nhất với sản lượng tăng 95,1 nghìn tấn; chanh leo cũng tăng 134 nghìn tấn; bơ, xoài, chuối đều có bước tiến đáng kể. Như vậy, bộ đôi cây công nghiệp lâu năm + cây ăn quả đã giữ vai trò quan trọng trong việc gia tăng giá trị sản xuất và đa dạng hóa rủi ro đầu ra cho nông dân vùng.
Một trong những điểm nổi bật là chuyển đổi từ đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng giá trị cao. Năm 2025, tổng diện tích chuyển đổi đạt 12.256,6 ha, lớn hơn năm trước (+2.855,6 ha). Các cây thay thế như lạc, rau màu, khoai lang, dưa, cây ăn quả dần chiếm ưu thế trong vùng chuyển đổi. Việc chuyển đổi không chỉ giúp tăng thu nhập mà còn giúp quản lý đất tốt hơn, giảm bộc lộ rủi ro cây lúa đơn canh, tăng tính linh hoạt sản xuất theo tín hiệu thị trường.
Cơ giới hóa tiếp tục lan tỏa mạnh, khâu làm đất đạt ~90%, thu hoạch đạt 75–80%. Các khâu gieo trồng, chăm sóc cũng được cơ giới hóa đáng kể (20–30%, >30%). Tưới tự động áp dụng đến ~90%. Khi kết hợp với áp dụng mô hình 3 giảm - 3 tăng, 1 phải - 5 giảm, sử dụng giống xác nhận cao,… nông dân vùng đã giảm được chi phí giống, thuốc, phân bón, hạn chế sâu bệnh - tất cả tạo ra “dư địa kỹ thuật” để bền vững hơn trong sản xuất.
Nền nông nghiệp bền bỉ, hướng tới Net Zero 2050
Năm 2025 khép lại với một bức tranh đầy sức sống của nông nghiệp vùng Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên. Trong muôn vàn khó khăn về thời tiết, chi phí đầu vào, rào cản kỹ thuật từ thị trường quốc tế, nông dân và ngành nông nghiệp vẫn thể hiện ý chí bền bỉ, bản lĩnh thích ứng và tinh thần đổi mới mạnh mẽ.
Các vùng sản xuất đã giữ vững đà tăng trưởng về năng suất, chất lượng và giá trị. Lúa gạo tiếp tục ổn định, cây màu và cây công nghiệp phát triển hài hòa, trái cây chủ lực khẳng định thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước. Đặc biệt, cà phê, hồ tiêu và rau quả đã tạo nên những kỷ lục xuất khẩu mới khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ nông sản toàn cầu.
Song điều quan trọng hơn cả không chỉ là những con số. Điều đáng quý nằm ở sự chuyển mình về tư duy phát triển, từ “tăng trưởng theo chiều rộng” sang “phát triển theo chiều sâu”, từ “sản lượng” sang “chất lượng”, từ “làm nông” sang “kinh tế nông nghiệp”. Những chương trình như tái canh cà phê, phát triển IPHM, mở rộng phân bón hữu cơ, thuốc BVTV sinh học, hay số hóa mã số vùng trồng không chỉ là hành động kỹ thuật, đó là minh chứng cho một tư duy mới: coi “xanh” là nền tảng của thịnh vượng, và “bền vững” là điều kiện để hội nhập.
Trong bối cảnh toàn cầu bước vào kỷ nguyên kinh tế xanh - phát thải thấp, việc Việt Nam chủ động triển khai Đề án giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt (2025-2035, tầm nhìn 2050) cho thấy quyết tâm không chỉ đáp ứng xu thế, mà còn dẫn dắt xu thế. “Net Zero 2050” không còn là mục tiêu xa vời, mà đã được khởi đầu ngay từ từng thửa ruộng, từng vườn cà phê, từng mô hình hợp tác xã, nơi người nông dân đang từng ngày học cách sản xuất thông minh hơn, tiết kiệm hơn, hài hòa hơn với thiên nhiên.
Có thể nói, năm 2025 là năm kiểm chứng sức bền của nông nghiệp vùng Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên và cũng là năm đặt nền móng cho một chu kỳ phát triển mới với một nền nông nghiệp hiện đại, số hóa, xanh hóa và nhân văn, nơi mỗi hạt gạo, hạt cà phê, mỗi trái sầu riêng không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn chứa đựng giá trị của trách nhiệm và niềm tự hào Việt Nam.
Hướng đến năm 2026 và những năm tiếp theo, toàn ngành cần tiếp tục phát huy tinh thần ấy liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nông dân, lấy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi xanh làm trục trung tâm. Khi ấy, mục tiêu “Net Zero 2050” sẽ không chỉ là cam kết trên giấy, mà là hành trình hiện thực hóa bằng chính mồ hôi, trí tuệ và khát vọng của người nông dân Việt Nam hôm nay.