
Phóng viên: Là một quốc gia với vùng biển rất giàu tài nguyên, nhưng thực tế nền kinh tế biển (KTB) của nước ta lại chưa phát triển tương xứng với tiềm năng này? Theo ông, đâu là nguyên nhân?
PGS.TS. Vũ Thanh Ca: Việt Nam là một quốc gia ven biển, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật, nguồn lợi thủy sản, tài nguyên du lịch và nhiều loại tài nguyên khác. Tuy nhiên, nền kinh tế biển Việt Nam hiện tại chưa phát triển tương xứng với tiềm năng đang có. Các nguyên nhân của điều này là do những khiếm khuyết trong việc xây dựng và thực thi thể chế, chính sách, quy định pháp luật về quản lý tổng hợp và phát triển bền vững KTB và cũng có thể có những tác động của lợi ích nhóm.
Trong những năm vừa qua, các cơ quan QLNN của Việt Nam, đặc biệt là Bộ TN&MT với sự tham mưu của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, đã rất nỗ lực nghiên cứu, ban hành thể chế, chính sách, pháp luật phục vụ phát triển bền vững (PTBV) KTB. Tuy vậy, trái với các nỗ lực, do đây là những vấn đề rất mới nên khi bắt tay vào thực tiễn công việc, đặc biệt là kinh nghiệm cần thiết để giải quyết các quá trình phức tạp xảy ra ở vùng bờ biển nên việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách, pháp luật nêu trên còn bị gián đoạn, chậm tiến độ.
Hơn nữa, có một vấn đề khá nghiêm trọng là một số địa phương thực thi chưa tốt các chính sách, pháp luật đã được ban hành. Ví dụ, việc xây dựng, ban hành và thực thi quy định về xây dựng hành lang bảo vệ bờ biển trong Luật TN, MT biển và hải đảo. Quy định này có mục đích là để BVMT biển, đảm bảo sự liên tục của hệ sinh thái từ trên bờ xuống biển và quyền tiếp cận của người dân với biển, nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các bãi biển phục vụ du lịch.
Tuy vậy, ngay sau khi Luật TN, MT biển và hải đảo được ban hành, việc xây dựng các công trình trái với các quy định của Luật tại nhiều bãi biển đẹp trên phạm vi cả nước đã được nhanh chóng thực hiện. Do vậy, trên thực tế, quy định về thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển đã bị vô hiệu hóa tại các khu vực đã xây dụng công trình. Có thể thấy, với cách quản lý điều hành chưa khoa học của các địa phương, hầu như các bãi biển đẹp mới được phát triển du lịch gần đây đã bị chia rời, băm nhỏ và do vậy giá trị tài nguyên bị giảm sút. Cơ sở hạ tầng vùng bờ biển yếu kém và thiếu đồng bộ; chủ yếu là các doanh nghiệp du lịch, nghỉ dưỡng tập trung vào xây dựng bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng.
Các công trình xử lý nước thải, rác thải chưa được quan tâm đầu tư nên nước thải từ các công trình dân sinh và du lịch chưa qua xử lý được xả trực tiếp xuống biển. Một lượng lớn rác thải chưa được thu gom, xử lý đúng cách và đã bị thất thoát ra môi trường, gây ra ONMT nặng nề cả trên bờ và dưới biển.
Các cảng biển được xây dựng tràn lan, không gắn với hậu cần vật chất và kỹ thuật nên hoạt động kém hiệu quả. Việc khai thác thủy sản quản lý yếu kém, các hình thức đánh bắt quá mức, bằng các hình thức hủy diệt diễn ra thường xuyên cùng với sự suy thoái nghiêm trọng của các hệ sinh thái biển quan trọng như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển đã làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản.
Ngoài ra, còn có rất nhiều vấn đề liên quan đến tính thiếu bền vững của nền KTB Việt Nam như đã nêu ra trong Nghị quyết số 36/NQ-TW của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Phóng viên: Phát triển KTB là yếu tố then chốt trong quá trình thực hiện Mục tiêu số 14 (SDG 14) về phát triển bền vững biển và đại dương đến năm 2030. Theo ông, nước ta nên tiếp tục theo hướng nào để khai thác hiệu quả những lợi thế đang có, thưa ông?
PGS.TS. Vũ Thanh Ca: Để khắc phục những yếu kém nêu trên, nhằm khai thác hiệu quả những lợi thế và PTBV nền KTB Việt Nam, việc đầu tiên cần làm là tiếp tục hoàn thiện thể chế và hệ thống chính sách, pháp luật quản lý tổng hợp biển và hải đảo trên cơ sở cách tiếp cận hệ sinh thái.
Trước hết, cần tập trung vào việc nghiên cứu, đánh giá những khuyết điểm, yếu kém, xác định các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục trong việc thực thi quản lý tổng hợp biển và hải đảo theo cách tiếp cận hệ sinh thái. Trên cơ sở đó, sửa đổi các chính sách, quy định pháp luật hiện có và xây dựng các chính sách, quy định pháp luật mới để xây dựng một mô hình quản lý phù hợp. Đồng thời, nhanh chóng hoàn thiện, ban hành và tổ chức thực hiện Quy hoạch không gian biển và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ. Ngoài ra, cần chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quản lý và phát triển KTB và hải đảo; đầu tư nghiên cứu khoa học, áp dụng công nghệ mới để xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng xử lý rác thải, nước thải, BVMT biển, hạ tầng phát triển KTB theo hướng một nền KTB xanh.
Phóng viên: Quá trình chuyển từ KTB “nâu” sang “xanh” vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, nhiều lĩnh vực đang bị bỏ ngỏ như năng lượng gió biển, điện gió ngoài khơi, năng lượng sóng biển, điện mặt trời,… Ông nghĩ sao về vấn đề này?
PGS.TS. Vũ Thanh Ca: Một vấn đề rất quan trọng cần phải nhấn mạnh đối với phát triển KTB Việt Nam là nền KTB cần được phát triển theo hướng một nền KTB xanh, tức là một mô hình kinh tế sử dụng hạ tầng và công nghệ xanh, các cơ chế tài chính sáng tạo và sắp xếp thể chế chủ động để đạt được hai mục tiêu bảo vệ biển và vùng bờ biển và tăng cường khả năng của chúng trong việc đóng góp vào PTBV, bao gồm cải thiện phúc lợi của con người, giảm các rủi ro môi trường và thiếu hụt sinh thái.
Trong nền KTB xanh cần phải sử dụng các công nghệ năng lượng sạch hơn và sử dụng ít tài nguyên hơn để tạo ra nguồn năng lượng. Hai nguồn năng lượng rất quan trọng để phát triển nền KTB xanh là năng lượng tái tạo từ mặt trời và gió. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang có những chính sách khá tốt để phát triển hai nguồn năng lượng này cùng với các nguồn năng lượng khác để bảo đảm an ninh năng lượng cho phát triển.
Phóng viên: Để phát triển mạnh KTB, nguồn lực trong nước là chưa đủ, làm thế nào để có thể huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tháo gỡ khó khăn chính sách và những lúng túng trong phát triển bền vững KTB Việt Nam hiện nay?
PGS.TS. Vũ Thanh Ca: Do những tiềm năng và lợi thế của biển Việt Nam, chúng ta có thể hi vọng được những nguồn đầu tư rất lớn từ nước ngoài để PTBV KTB. Để làm được việc này, trước hết cần phải cải cách thể chế một cách triệt để, tạo một môi trường thuận lợi cho việc đầu tư.
Chúng ta có thể huy động vốn thông qua đấu thầu quốc tế các dự án phát triển kinh tế có sử dụng đất, các dự án BOT phát triển kết cấu hạ tầng vùng bờ biển, có thể huy động nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng quốc tế như ADB, IMF, WB,… và nguồn vốn ODA từ các nước phát triển để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng và phương tiện, thiết bị thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải, nước thải, BVMT biển và vùng bờ biển.
Cơ chế tài chính sáng tạo gắn với thu phí theo nguyên tắc người gây ô nhiễm, người sử dụng phải trả tiền sẽ giúp chúng ta tạo nguồn thu phù hợp để cân đối nguồn tài chính trong tương lai.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!
Anh Linh (thực hiện)