Phát triển năng lượng toàn cầu - xu hướng dịch chuyển tích cực các nguồn “năng lượng xanh”

Thứ năm, 23/5/2024, 15:53 (GMT+7)
logo Thế giới chúng ta đang sống có nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, nhu cầu về sử dụng năng lượng đang tiếp tục tăng lên do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa mạnh mẽ, tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp của năng lượng tái tạo để đáp ứng nhu cầu phát triển vẫn còn thấp so với các loại năng lượng truyền thống. Vì vậy, cùng với quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế, chuyển đổi năng lượng đóng vai trò then chốt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng bằng ‘0’ vào năm 2050.

Phát triển năng lượng toàn cầu - xu hướng dịch chuyển tích cực các nguồn “năng lượng xanh”

Thách thức trong phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng xanh

Hệ thống năng lượng là động lực phát triển kinh tế và xã hội. Vì ngành năng lượng chiếm khoảng 3/4 lượng phát thải KNK toàn cầu nên việc nhanh chóng cắt giảm cacbon nhằm đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 là vô cùng cần thiết. Chúng ta phải loại bỏ thói quen sử dụng nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm và hướng tới một tương lai sạch hơn, xanh hơn. Tổng công suất lắp đặt toàn cầu và tỷ trọng của năng lượng tái tạo trong lưới điện đã tăng lên trong hai thập kỷ qua. Hiện nay, khoảng 30% sản lượng điện trên toàn cầu là năng lượng tái tạo. Vào năm 2023, thế giới đã bổ sung thêm gần 510 gigawatt (GW) năng lượng tái tạo, đánh dấu mức tăng khoảng 50% so với năm trước đó. Tốc độ tăng trưởng đạt cao nhất trong hai thập kỷ vừa qua.

Tuy nhiên, việc cố gắng hướng tới lượng phát thải ròng bằng “0” sẽ đòi hỏi nguồn tài nguyên nước khổng lồ, điều này càng làm gia tăng áp lực. Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH đã xác định các yêu cầu đối với nước ngọt liên quan đến hầu hết các biện pháp giảm phát thải và hấp thụ. Những yêu cầu này phải được hiểu và quản lý bằng cách thức có thể chấp nhận được về mặt xã hội và chính trị nhằm giảm thiểu mức độ tiêu thụ nước đồng thời gia tăng sự tương tác với phát triển bền vững. Việc sản xuất năng lượng và lập kế hoạch hành động bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng khí tượng thủy văn, các hệ thống năng lượng ngày càng phải đối mặt với những biến động về thời tiết và khí hậu, ảnh hưởng đến cả nhu cầu và an ninh năng lượng. Do đó, các nhà hoạch định chính sách, quy hoạch năng lượng và vận hành lưới điện cần có dữ liệu và phân tích toàn diện nhằm đảm bảo khả năng phục hồi của hệ thống năng lượng trước sự biến đổi mạnh mẽ liên quan đến khí hậu và đưa ra các giải pháp để tăng hiệu quả sử dụng năng lượng. Dịch vụ khí hậu cung cấp thông tin cho việc lựa chọn địa điểm, đánh giá và bảo tồn tài nguyên cũng như tối ưu hóa hệ thống năng lượng. Cộng đồng WMO đang tăng cường các hoạt động và quan hệ hợp tác để cung cấp các dịch vụ và thông tin có mục đích nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo. Ảnh hưởng của thời tiết và khí hậu đối với công suất và hiệu năng hoạt động của các hệ thống điện gió, điện mặt trời và thủy điện cũng được xem xét.

Báo cáo Hiện trạng về Dịch vụ Khí hậu cho Năng lượng của WMO năm 2022 đưa ra lộ trình để đạt được các mục tiêu. Trong đó, bao gồm các nghiên cứu điển hình thành công của một số nước. Tại Pháp, Réseau de Transport d’Électricité (RTE), hệ thống truyền tải điện của Pháp, sử dụng dữ liệu khí hậu và các mô hình chuyển đổi năng lượng để tính toán nhu cầu điện và cách đáp ứng nhu cầu điện thông qua các cách thức phát điện khác nhau, bao gồm cả năng lượng tái tạo cho các nghiên cứu triển vọng dài hạn của nó. Trung Quốc: Hệ thống cảnh báo sớm nhằm mục đích giải quyết các rủi ro đối với cuộc sống con người, sự ổn định năng lượng và tài sản của công ty thông qua nền tảng trực tuyến đưa ra các cảnh báo và khuyến nghị về rủi ro do thời tiết gây ra đối với hoạt động của hệ thống điện gió ngoài khơi. Ai Cập: Chính phủ đang sử dụng một tập bản đồ năng lượng mặt trời do Chính phủ Ai Cập phát triển, với sự hỗ trợ của Nhóm Quan trắc Trái đất, để lập kế hoạch đầu tư quốc gia trong tương lai và khai thác hiệu quả năng lượng mặt trời. Tại Ethiopia, việc sử dụng các dự báo để quản lý hoạt động thủy điện mang lại lợi ích tích lũy theo thập kỷ từ 1 đến 6,5 tỷ USD so với cách tiếp cận khí hậu (không dự báo). Tajikistan, phân tích dữ liệu KTTV ở Tajikistan hỗ trợ các hoạt động thủy điện thích ứng với khí hậu và giảm thiểu tình trạng dễ bị tổn thương trước BĐKH. Hoa Kỳ: Việc sử dụng dự báo dòng chảy làm cho sản lượng năng lượng tăng thêm 5,5 TWh/năm từ các đập thủy điện lớn trên sông Columbia (Hoa Kỳ), dẫn đến doanh thu tăng trung bình hàng năm khoảng 153 triệu USD mỗi năm.

Ủy ban châu Âu công bố một trong những kế hoạch tham vọng nhất thế giới nhằm giảm phát thải carbon và hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch, biến các mục tiêu xanh trở thành hành động cụ thể ngay trong thập kỷ này. Theo đó, Ủy ban châu Âu đã nêu ra chi tiết lộ trình giúp 27 quốc gia của khối chinh phục mục tiêu chung là giảm lượng phát thải ròng KNK xuống 55% so với mức của năm 1990 vào năm 2030. Đây là một bước tiến hướng tới Net Zero vào năm 2050. Kế hoạch này đề xuất đánh thuế carbon đối với hàng hóa nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào phát thải; cấm ô tô chạy bằng động cơ đốt trong vào năm 2035; trồng 3 tỷ cây xanh vào năm 2030 như một phần của nỗ lực loại bỏ 310 triệu tấn carbon khỏi không khí. Tại Anh, Chính phủ đã tuyên bố đạt Net Zero vào năm 2035 với mục tiêu giảm 78% lượng khí thải vào năm 2035 so với mức năm 1990. Theo đó, tất cả năng lượng sẽ đến từ các nguồn tái tạo. Một số biện pháp đã được công bố từ trước gồm: Cấm bán xe hơi chạy bằng xăng hay dầu trước năm 2030; tăng công suất điện gió ngoài khơi lên gấp bốn lần trước 2030; tăng sử dụng năng lượng hạt nhân; đầu tư vào năng lượng hydrogen có carbon thấp. Nước Anh đưa ra lộ trình, đến năm 2028, 600.000 máy bơm khí nóng sẽ được lắp đặt mỗi năm (máy bơm không khí nóng sẽ mang hơi nóng xung quanh tòa nhà đến hệ thống sưởi trung tâm); trồng cây xanh trên 30.000 ha mỗi năm cho tới. 2025.

Việt Nam phát triển năng lượng tái tạo trở thành xu thế tất yếu 

Ngành năng lượng toàn cầu có xu hướng dịch chuyển tích cực với các nguồn “năng lượng xanh”, Việt Nam cũng thuộc danh sách các nước có tiềm năng lớn để đầu tư thêm các nguồn năng lượng tái tạo mới như điện mặt trời, điện gió, điện sinh khối, điện song biển và khí sinh học Biogas, bên cạnh các nguồn năng lượng sẵn có như điện khí tự nhiên hóa lỏng LNG (Liquefied Natural Gas), thủy điện và điện than. Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3260 km, với tốc độ gió trung bình 7 m/s. Các tỉnh Tây Nguyên, Nam Bộ và Nam Trung bộ có bức xạ mặt trời cao trung bình 1.387-1.534 Kwh/KWp/năm. Đây là lợi thế tự nhiên tạo ra sức hút lớn về đầu tư vào điện gió và điện mặt trời ở các tỉnh này. Bên cạnh lợi thế về gió, bức xạ mặt trời thì với diện tích rừng lớn, chỉ riêng tại Cà Mau, lượng khai thác và các chế phẩm từ gỗ đạt khoảng 225.000-300.000 tấn/năm cũng là tiềm năng lớn để phát triển điện sinh khối. Theo Cục Năng lượng và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), trong thời gian gần đây, với các chính sách khuyến khích của Chính phủ, nguồn năng lượng tái tạo có sự phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam. Tính đến hết năm 2021, tổng công suất đặt các nguồn điện gió, điện mặt trời đạt 20.670 MW, chiếm gần 27% tổng công suất đặt toàn hệ thống. Sản lượng điện từ nguồn điện này đã đạt 31,5 tỷ kWh, chiếm 12,27% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, Việt Nam đồng thời phải thực hiện các giải pháp nhằm giải quyết các khó khăn thách thức trong việc đảm bảo an ninh năng lượng trong điều kiện giảm thiểu các tác động môi trường của hoạt động phát điện, phụ tải tăng trưởng với tốc độ cao gây sức ép lên hạ tầng cơ sở ngành năng lượng, đòi hỏi vốn đầu tư lớn cùng các giải pháp kỹ thuật phức tạp.

Mặc dù là nước đang phát triển, mới chỉ bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa trong hơn 3 thập kỷ qua nhưng là nước có lợi thế về năng lượng tái tạo, Việt Nam sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải KNK mạnh mẽ bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác, hỗ trợ về tài chính và chuyển giao công nghệ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt Net Zero vào năm 2050; đồng thời, Việt Nam cam kết giảm phát thải khí metan 30% vào năm 2030, cam kết chống suy thoái rừng và chuyển đổi năng lượng sạch.

Cuối tháng 3 vừa qua, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tiếp bà Mary L.Schapiro, Phó Chủ tịch Liên minh Tài chính Glasgow vì mục tiêu giảm phát thải ròng KNK bằng 0 (GFANZ), Phó Thủ tướng cho biết, Việt Nam đang gặp một số khó khăn trong xây dựng cơ chế, chính sách pháp lý cho chuyển đổi xanh. Nhiều nhà đầu tư bày tỏ sự quan tâm đến các dự án năng lượng tái tạo nhưng chưa giải được bài toán công nghệ như bảo đảm cân bằng, ổn định của lưới điện quốc gia, sản xuất, sử dụng hydro xanh, amoniac xanh, các giải pháp lưu trữ điện năng, xuất khẩu điện. Trong thời gian tới, Việt Nam đặt mục tiêu giải quyết dứt điểm các vướng mắc về pháp lý, đồng thời triển khai thí điểm một số dự án điện gió ngoài khơi, điện mặt trời với giải pháp lưu trữ điện năng, cấp điện linh hoạt,… Phó Thủ tướng nhấn mạnh, Việt Nam đã có những dự án chuyển đổi năng lượng cụ thể như tăng công suất các nhà máy thuỷ điện kết hợp với điện mặt trời, điện gió, phát triển điện sinh khối, thực hiện trung hoà carbon, chuyển đổi giao thông xanh, giảm phát thải khí methane trong 1 triệu ha lúa, phát triển 5.000 MW điện mặt trời áp mái;… và cần hỗ trợ về tài chính để sớm triển khai. Bên cạnh đó, Việt Nam mong muốn được trợ giúp về kỹ thuật, chuyên gia trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, chuyển giao công nghệ, đánh giá tính khả thi của các trung tâm năng lượng, điện gió ngoài khơi.

Theo TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH cho biết, để phát huy tiềm năng về năng lượng tái tạo cũng như thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng từ hóa thạch sang năng lượng tái tạo, năng lượng tái tạo cần phải trở thành hàng hóa công cộng, phục vụ tất cả mọi người dân và mọi người dân đều có thể tiếp cận được và hưởng lợi từ phát triển năng lượng tái tạo và chuyển đổi năng lượng, đặc biệt là những nhóm hoặc cộng đồng chịu ảnh hưởng do quá trình chuyển đổi năng lương cần phải được hỗ trợ về sinh kế, đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp. Chính sách có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng. Do đó, cần có cơ chế, chính sách phù hợp ở từng quốc gia để khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào năng lượng tái tạo, cũng như thúc đẩy việc chuyển đổi năng lượng, đặc biệt là từ khâu lập quy hoạch, đến cấp phép, quản lý và vận hành dự án phát triển năng lượng tái tạo. Cần đặt ra các mục tiêu về phát triển năng lượng tái tạo, đạt phát thải ròng bằng “0” và giảm ô nhiễm không khí trở thành tiêu chí để đưa ra quyết định đầu tư, phát triển các dự án năng lượng. Đặc biệt, cần có sự cam kết và tham gia trách nhiệm của hệ thống tài chính, bao gồm các ngân hàng phát triển đa phương, các tổ chức tài chính, tín dụng thông qua việc điều chỉnh danh mục cho vay đầu tư theo hướng đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo.

Thế giới đang chuyển dịch từ năng lượng hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo nhằm hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, nhiệt điện gây ô nhiễm, thủy điện đã đến giới hạn, vì thế phát triển năng lượng tái tạo trở thành xu thế tất yếu. Việt Nam có tiềm năng đặc biệt lớn về các nguồn năng lượng tái tạo như: Thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, để phát triển bền vững nguồn năng lượng tái tạo thì cần tập trung vào các chính sách, hạ tầng truyền tải và điều độ vận hành hệ thống điện. Vì vậy, cần chuyển sang cơ chế đấu thầu để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư được chọn lựa để phát triển sẽ là nhà đầu tư đưa ra giá bán điện từ dự án điện năng lượng tái tạo thấp nhất. Cùng với đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền và phổ biến kiến thức đến với mọi người dân về tầm quan trọng, hiệu quả KT-XH, BVMT của việc phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo trong quá trình phát triển bền vững. Từ đó, có những hành động thiết thực đóng góp cho việc phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo. Giáo dục ý thức tiết kiệm năng lượng, sử dụng nguồn năng lượng sạch cho người dân.
Tiềm năng của ngành năng lượng tái tạo đang dần trở thành xu hướng chủ đạo và nhận được nhiều sự quan tâm tại Việt Nam. Việc phát triển năng lượng tái tạo là rất cần thiết để đảm bảo an ninh năng lượng, góp phần phát triển kinh tế, ứng phó với BĐKH. Để tận dụng được hết tiềm năng vốn có thì Việt Nam cần những chính sách để mở rộng thị trường năng lượng tái tạo, thúc đẩy và triển khai công nghệ mới, cung cấp các cơ hội thích hợp, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo ở tất cả các lĩnh vực quan trọng. Với sự hỗ trợ từ những chính sách cụ thể, những dự án năng lượng tái tạo sẽ có nhiều cơ sở để phát triển và thu hút các nhà đầu tư, thúc đẩy chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước, giúp các doanh nghiệp này có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

TRUNG HIẾU
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 7 năm 2024