
Ảnh minh họa
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Quản lý và đấu tranh với các hành vi vi phạm
Cục Cảnh sát môi trường (C05) đã tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công an ban hành Kế hoạch số 102/KH-BCA về tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật (VPPL) trong hoạt động khai thác, kinh doanh cát, sỏi trên sông và cửa biển; Kế hoạch số 237/KH-BCA-C41 về tăng cường phối hợp QLNN với khoáng sản và đấu tranh với các hành vi khai thác khoáng sản (KTKS) trái phép, đặc biệt là cát, sỏi lòng sông. Đồng thời, C05 đã phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng của trung ương và địa phương đưa 1.474 lượt phóng sự, tin bài tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về tài nguyên khoáng sản (TNKS); tổ chức gần 11.500 đợt tuyên truyền phổ biến, phát trên 31.000 tờ rơi tới các tổ chức, cá nhân tích cực tham gia lên án, tố cáo các hành vi vi phạm trong lĩnh vực khai thác cát,… Kết quả, từ năm 2016 đến nay, lực lượng Cảnh sát môi trường (CSMT) đã trực tiếp phát hiện, đấu tranh, xử lý 15.060 vụ/16.305 tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về BVMT trong hoạt động nghiên cứu, thăm dò, khai thác TNKS. Trong đó, đã trực tiếp khởi tố vụ án hình sự 13, 14/vụ đối tượng về tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên; xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) với tổng số tiền phạt trên 150 tỷ đồng; tạm giữ, tịch thu hàng trăm tàu thuyền, máy đào, máy hút, tàu cuốc, ống bơm và hàng nghìn tấn than, quặng, cát, sỏi, đá các loại. Ngoài ra, lực lượng CSMT đã thực hiện tốt các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản; bố trí, sử dụng cộng tác viên bí mật phục vụ tốt cho công tác nắm tình hình, thu thập thông tin, tài liệu bổ sung hồ sơ nghiệp vụ và đấu tranh chuyên án trên lĩnh vực TNKS.
Các hành vi vi phạm trong lĩnh vực khoáng sản trong thời gian qua chủ yếu tập trung ở các nhóm: Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết BVMT trong quá trình thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản; xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép; vi phạm các quy định của pháp luật về KTKS như không có quyết định cấp phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không có thiết kế phê duyệt mỏ, khai thác vượt ra ngoài khu vực được phép, không có báo cáo định kỳ về chế biến khoáng sản,... Trong đó, các phương thức, thủ đoạn vi phạm từ việc KTKS không có giấy phép hoặc giấy phép khai thác đã hết hạn đến KTKS ở ngoài khu vực của giấy phép khai thác, dùng phương tiện có sức chở lớn khoáng sản, bên trên ngụy trang bằng các loại hàng hoá khác, sau đó vận chuyển đến nơi tiêu thụ,... Một số đối tượng có hành vi mua, bán khoáng sản không có nguồn gốc hợp pháp với khối lượng rất lớn, rồi sau đó tiến hành mua, bán hóa đơn trái phép để hợp thức hóa nguồn gốc nguyên liệu đầu vào nhằm thu lợi bất hợp pháp gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Mặc dù, công tác phòng, chống VPPL trong lĩnh vực khoáng sản của lực lượng CSMT đã đạt được một số kết quả, nhưng nhìn chung còn bộc lộ những khó khăn, hạn chế.
Thứ nhất, địa bàn các đối tượng lợi dụng hoạt động KTKS trái phép chủ yếu là trên sông, cửa biển, vùng sâu, vùng xa, rừng núi hiểm trở ít người qua lại, việc di chuyển đi lại rất khó khăn; hoạt động khai thác của các đối tượng diễn ra ngày càng với nhiều thủ đoạn tinh vi để đối phó với các cơ quan chức năng.
Thứ hai, quá trình kiểm tra, bắt giữ, đấu tranh xử lý các đối tượng trực tiếp KTKS (đặc biệt là cát, sỏi) thường gặp nhiều khó khăn do các đối tượng bơm hút cát trái phép chủ yếu là người làm thuê từ các tỉnh khác đến; không có hộ khẩu thường trú tại địa phương; không biết chữ và thường không mang giấy tờ tùy thân; các phương tiện bơm hút không có đăng ký, đăng kiểm theo quy định.
Thứ ba, việc xác định và giám định mẫu vật khoáng sản; xác định lưu lượng về bụi, khí thải và tiếng ồn đối với các nguồn hở; thiết bị hỗ trợ chứng minh tội phạm, xử lý VPHC như máy định vị tọa độ xác định vùng khai thác, máy đo độ sâu, máy đo khoảng cách, máy đo đạc xác định khối lượng, định lượng và giám định còn thiếu. Lực lượng CSMT và công an các đơn vị, địa phương chưa được đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng nơi lưu giữ tang vật, phương tiện vi phạm trong lĩnh vực môi trường, TNKS như: Xà lan, máy bơm, máy hút, xe cuốc.
Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống vi phạm
Tăng cường công tác nắm tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác phòng, chống VPPL trong lĩnh vực khoáng sản. Trong thời gian tới, lực lượng CSMT cần chủ động nắm chắc tình hình và có dự báo chính xác, không để tình hình phức tạp xảy ra, gây mất ổn định an ninh trật tự, nhất là ngay từ địa bàn cơ sở; tham mưu Bộ Công an kiến nghị với Chính phủ, các ngành liên quan điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các văn bản QPPL, từng bước hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật làm cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống và xử lý VPPL về môi trường, TNKS. Trong đó, nội dung trọng tâm là hướng dẫn những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện Điều 227, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị định số 23/NĐ-CP quy định về quản lý cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng bờ, bãi sông; Nghị định số 36/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản; Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt VPHC trong hoạt động thương mại.
Kiện toàn lực lượng CSMT từ cấp Bộ đến cấp huyện, đảm bảo các điều kiện cho các đơn vị trong hệ lực lượng thực hiện đúng và tốt chức năng nhiệm vụ; tăng cường công tác đào tạo, giáo dục nâng cao chất lượng, trình độ nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật cho cán bộ chiến sĩ CSMT; trong đó, chú trọng đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ trong lĩnh vực khoáng sản, giám sát phục hồi, BVMT.
Làm tốt công tác dự báo tình hình tội phạm, VPPL về môi trường trong hoạt động thăm dò, KTKS; triển khai một cách toàn diện, có chiều sâu, chất lượng các biện pháp nghiệp vụ nhất là công tác nghiệp vụ cơ bản tại các tuyến, địa bàn, lĩnh vực, hệ loại đối tượng trọng điểm; chủ động, kịp thời phát hiện, đấu tranh, xử lý có hiệu quả đối với tội phạm, VPPL về khai thác, vận chuyển, tập kết, kinh doanh khoáng sản. Tiếp tục mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp chống tội phạm, VPPL trong hoạt động KTKS. Đồng thời, đề xuất trang cấp phương tiện, công cụ hỗ trợ cho lực lượng CSMT phục vụ đấu tranh, xử lý đạt hiệu quả; bố trí nơi tạm giữ tang vật phương tiện VPHC đảm bảo cho quá trình xử lý VPPL trong lĩnh vực khoáng sản.
Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trong và ngoài ngành để trao đổi thông tin, thu thập tài liệu để nâng cao hiệu quả công tác QLNN trong lĩnh vực khoáng sản và phòng, chống VPPL trong lĩnh vực khoáng sản. Đối với các lực lượng nghiệp vụ ngoài ngành Công an, đối tượng được xác định cần tăng cường, xây dựng mối quan hệ phối hợp với lực lượng CSMT, đó chính là tất cả các cơ quan, tổ chức có chức năng quản lý, thanh tra, kiểm tra, kiểm định, giám định về môi trường, TNKS như lực lượng: Chính quyền cấp cơ sở, TN&MT, Xây dựng, Giao thông vận tải, Quản lý thị trường,... Các lực lượng trong ngành Công an, như: Cảnh sát kinh tế, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cảnh sát giao thông,... cần xây dựng thêm một cơ chế phối hợp mới, bên cạnh cơ chế hợp đồng tác chiến trực tiếp còn cần vận dụng cơ chế gián tiếp thông qua hệ thống, trung tâm thông tin nghiệp vụ nhằm lưu trữ toàn bộ kết quả hoạt động nghiệp vụ của các lực lượng và cho phép các lực lượng khác nhau, trong đó có lực lượng CSMT có thể tra cứu, khai thác nguồn thông tin, tài liệu phục vụ có hiệu quả công tác phòng, chống VPPL trong lĩnh vực khoáng sản.
PGS. TS. PHAN TIẾN DŨNG
Trường Đại học Cảnh sát nhân dân