Phương pháp xác định phương thức thu, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được đưa vào dự án Luật Địa chất và khoáng sản, với phương pháp này tại Kỳ họp thứ 7 nhiều Đại biểu quốc hội cho rằng, Ban soạn thảo dự án Luật có thể xem xét, nghiên cứu tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế. Phương pháp này góp phần đảm bảo thu ngân sách Nhà nước và tránh rủi ro cho tổ chức, cá nhân khi bị thanh tra, kiểm tra hay điều tra.
Đảm bảo không giảm nguồn thu từ khai thác khoáng sản để nộp vào ngân sách Nhà nước
Dự án Luật Địa chất và khoáng sản trình ra Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 được xây dựng gồm 117 điều, bố cục thành 12 chương, tăng 01 chương và 31 điều (so với Luật Khoáng sản năm 2010), tăng 01 chương và giảm 19 điều (so với Đề cương đã được thông qua). Đây là dự án Luật được kỳ vọng góp phần giải quyết những bất cập, vướng mắc hiện tại, song song với đó là chế tài pháp lý phục vụ mục đích để Việt Nam hình thành nền công nghiệp khai khoáng tiên tiến, hiện đại gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh vào năm 2045,... Một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của các Đai biểu quốc hội (ĐBQH) đối với dự án Luật là quy định về phương pháp xác định phương thức thu, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được đề cập tại Điều 103.
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Thuận: Tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế. Bởi việc tính tiền theo trữ lượng khoáng sản như hiện nay là không đảm bảo tính chính xác, vì thực tế hiện nay phần lớn các doanh nghiệp hoặc các đơn vị khai thác thường khai thác vượt mức trữ lượng được cấp phép, dẫn đến thất thu ngân sách Nhà nước, cũng có thể xảy ra các rủi ro cho tổ chức, cá nhân khi bị thanh tra, kiểm tra hay điều tra.
.jpg)
Hiện nhiều doanh nghiệp đã đấu giá được quyền khai thác khoáng sản, được cấp phép và tiến hành nộp tiền nhưng thực tế doanh nghiệp trên không bao giờ khai thác được khoáng sản, vì đất có trữ lượng khoáng sản đưa ra đấu giá phần lớn là đất của người dân. Do vậy, doanh nghiệp trúng đấu giá và chủ đất thì không thể thỏa thuận được, doanh nghiệp không thể tiến hành khai thác được, doanh nghiệp không có tiền thì không thể nộp tiền vào cho ngân sách Nhà nước. Vì thế, phương án tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế là phù hợp nhất.
Đại biểu Trần Thị Kim Nhung - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh: Cũng liên quan đến về phương pháp xác định phương thức thu, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, đó là quy định tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu theo năm và quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế ở Điều 103 của dự án Luật. Quy định này sẽ khắc phục được hạn chế của quy định cũ là tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản dựa trên trữ lượng khoáng sản được phê duyệt, mà trữ lượng này thường hay bị sai số.
.jpg)
Những quy định hiện hành về tiền cấp quyền khoáng sản sẽ gây khó khăn, sự không công bằng cho tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản và chưa đảm bảo sự hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Tuy nhiên, với nội dung sửa đổi lần này thì tiền cấp quyền khai thác khoáng sản lại giống như thuế tài nguyên, về bản chất là giống nhau, vì đều là một khoản tiền để nộp vào ngân sách Nhà nước, cũng thu theo năm và tính theo sản lượng khai thác thực tế. Hơn nữa, khi thay đổi cách tính, cách thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo dự thảo Luật lần này thì ý nghĩa của tiền cấp quyền khai thác khoáng sản trước đây đặt ra ở trong luật hiện hành là để chống đầu cơ trong khai thác khoáng sản thì có lẽ không còn nữa.
Do đó, đề nghị gộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản vào thuế tài nguyên để thuận tiện, tiết kiệm thời gian, chi phí của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản cũng như tiết kiệm chi phí nhân lực trong quản lý nhà nước và quan trọng là cũng không mất, không giảm nguồn thu từ khai thác khoáng sản để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Đại biểu Nguyễn Quốc Luận - Đoàn ĐBQH tỉnh Yên Bái: Tại điểm b khoản 1 Điều 103 quy định về một trong những cơ sở để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là giá tính thuế tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, theo đại biểu Nguyễn Quốc Luận - Đoàn ĐBQH tỉnh Yên Bái, bảng giá tính thuế tài nguyên khoáng sản của các địa phương thì do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quy định và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan theo cơ chế thị trường. Do vậy, cùng một loại khoáng sản nhưng sẽ không có sự đồng nhất về mức giá giữa các địa phương dẫn đến việc tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với cùng một loại khoáng sản giữa các địa phương cũng khác nhau.
.jpg)
Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, xem xét không quy định sử dụng giá tính thuế tài nguyên khoáng sản làm căn cứ để tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Thay vào đó nên xây dựng bảng giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản cụ thể cho các loại khoáng sản khác nhau, áp dụng chung cho tất cả các địa phương để đảm bảo tính thống nhất trong thực hiện.
Bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp thăm dò khoáng sản
Một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của các chuyên gia, nhà khoa học đối với dự án Luật là Quyền ưu tiên đối với tổ chức, cá nhân thăm dò khoáng sản được đề cập tại Điều 51. Theo đó, tổ chức, cá nhân thăm dò khoáng sản được ưu tiên nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sản đối với trữ lượng khoáng sản đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận trong thời hạn 36 tháng, kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận kết quả thăm dò khoáng sản. Hết thời hạn ưu tiên quy định tại khoản 1 Điều này, tổ chức, cá nhân đã thăm dò không gửi hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sản đối với khu vực đã thăm dò thì mất quyền ưu tiên đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sản.
Trường hợp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép khai thác khoáng sản cho tổ chức, cá nhân khác theo quy định của Luật này thì tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép khai thác phải hoàn trả chi phí thăm dò khoáng sản cho tổ chức, cá nhân thăm dò khoáng sản theo quy định của Luật này.
Bà Đặng Thị Ngọc Thuỷ, Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp Địa chất và khoáng sản Việt Nam: Trên thực tế, các đơn vị thăm dò khoáng sản đều có nhu cầu xin cấp phép khai thác nhưng do điều kiện khách quan (giá bán xuống thấp, không tìm kiếm được thị trường, chưa có công nghệ chế biến sâu phù hợp,… nên chưa nộp đơn xin cấp phép khai thác trong khoảng thời gian được ưu tiên (36 tháng kể từ ngày được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận kết quả).
.jpg)
Tuy nhiên, với quy định trên, tôi lại băn khoăn, sau thời gian trên, chưa có quy định hoặc hướng dẫn về trường hợp khi mất quyền ưu tiên, đơn vị thăm dò khoáng sản vẫn có nhu cầu xin cấp phép khai thác thì xử lý như thế nào? Ngoài ra, trong các trường hợp tại thời điểm nộp hồ sơ xin chấp thuận chủ trương đầu tư có nhiều đơn vị nộp hồ sơ xin chấp thuận đầu tư hoặc không có đơn vị nào xin chấp thuận đầu tư khai thác mỏ thì cũng không biết xử lý ra sao. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo dự án Luật Địa chất và khoáng sản làm rõ hơn những tình huống này.
Ông Nguyễn Vũ Hải, Phó Trưởng Ban Tài nguyên, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam:

Đối với khoản 1 Điều 51, đề nghị xem xét chỉnh sửa như sau: “Tổ chức, cá nhân thăm dò khoáng sản được ưu tiên cấp giấy phép khai thác khoáng sản đối với trữ lượng khoáng sản đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận”. Lý do là vì có những loại khoáng sản theo chủ trương của Bộ Chính trị, Chính phủ phải chờ kết quả thực hiện các dự án thí điểm mới cho triển khai các dự án tiếp theo (như bauxit), điều kiện khai thác phức tạp, phải nghiên cứu lựa chọn công nghệ khai thác phù hợp (như than Đồng bằng sông Hồng), dẫn đến chưa thể lập dự án xin cấp phép khai thác cho các khu vực đã thăm dò trong thời hạn 36 tháng.
Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, dự án Luật Địa chất và khoáng sản được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7 và sẽ tiếp được cơ quan soạn thảo, thẩm tra tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu tối đa những ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, Bộ ngành để trình Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 8 diễn ra vào tháng 10/2024 nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định.
Diệp Anh (lược ghi)