
Cháy, nổ từ năm 2012 đến nay
Theo thống kê của các cơ quan chức năng, trong 05 năm (2012 - 2016), trên phạm vi cả nước đã xảy ra 11.461 vụ cháy, làm chết 360 người, bị thương 957 người; thiệt hại về tài sản do cháy gây ra ước tính trị giá hơn 6.147 tỉ đồng, trong đó có 140 vụ cháy lớn, làm chết 03 người, bị thương 37 người, gây thiệt hại về tài sản ước tính hơn 4.776 tỉ đồng. Năm 2017, cả nước xảy ra 4.114 vụ cháy, nổ, làm 119 người chết và 270 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 2.000 tỷ đồng. Năm 2018, cả nước xảy ra 4.075 vụ cháy, nổ làm 112 người chết và 263 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 1,7 nghìn tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2019, cả nước xảy ra 1.927 vụ (trong đó, 1.843 vụ cháy tại các cơ sở, nhà dân, phương tiện giao thông, 84 vụ cháy rừng). Thiệt hại do cháy gây ra: làm chết 59 người, bị thương 64 người, thiệt hại về tài sản khoảng 654,94 tỷ đồng và 408 ha rừng. Trong đó, có 27 vụ cháy lớn gây thiệt hại nghiêm trọng, làm chết 08 người, bị thương 03 người, thiệt hại về tài sản khoảng 275,7 tỷ đồng.
Giá trị thiệt hại do cháy, nổ gây ra ở các địa phương có KCN, đô thị phát triển chiếm tới trên 70% tổng giá trị thiệt hại. Nếu tính cả thiệt hại gián tiếp (ngừng sản xuất kinh doanh; đầu tư khôi phục sau cháy, nổ...) thì tổng thiệt hại sẽ tăng lên gấp nhiều lần. Nhiều vụ cháy đã để lại hậu quả nặng nề cho con người, tác động xấu đến môi trường, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Có thể nhận thấy tính chất, mức độ các vụ cháy, nổ trên thực tế có xu hướng ngày càng nguy hiểm, diễn biến phức tạp.
Một buổi diễn tập phòng cháy, chữa cháy. Ảnh minh họa
Đánh giá công tác về phòng chống cháy, nổ
Trong giai đoạn 2012 đến nay, hoạt động QLNN về PCCC trên cả nước đã đạt được một số kết quả nhất định như: Hệ thống văn bản QPPL về PCCC ngày càng được xây dựng đầy đủ, đồng bộ, tổ chức thực hiện tốt hơn trong thực tiễn. Các văn bản đã được ban hành như: Luật PCCC, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCCC, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng PCCC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCCC, Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 66/2014/TT-BCA… Tổ chức bộ máy QLNN về PCCC được kiện toàn, sắp xếp lại thống nhất từ trung ương đến địa phương; đội ngũ cán bộ, chiến sỹ thực hiện nhiệm vụ PCCC được đào tạo, huấn luyện, bố trí sử dụng hợp lý, khoa học. Nguồn lực cho hoạt động PCCC được tăng cường; cở sở vật chất và ứng dụng công nghệ hiện đại trong PCCC được triển khai tốt hơn, trang bị hiện đại hơn. Hoạt động thẩm duyệt về PCCC các dự án, công trình ngay từ khi lập quy hoạch để đảm bảo yêu cầu về PCCC được thực hiện nghiêm túc.
Tuy nhiên, hoạt động QLNN về PCCC ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế: Hệ thống pháp luật về PCCC chưa đồng bộ, chưa có chế tài mạnh mẽ để xử lý triệt để các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực PCCC. Tổ chức bộ máy QLNN về PCCC chưa phát huy được hết các tác dụng như mong muốn, sự phối kết hợp giữa lực lượng PCCC với các cơ quan, đơn vị và người dân trong việc PCCC đôi khi còn chưa hiệu quả. Cở sở vật chất và trang thiết bị cho hoạt động PCCC còn nhiều bất cập; hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động PCCC chưa đạt kết quả như mong muốn.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về PCCC. Nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động PCCC trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, các cơ quan, tổ chức, địa phương, lực lượng vũ trang và người dân là hết sức quan trọng. Khi nhận thức đúng đắn, đẩy đủ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động PCCC thì sẽ có những điều chỉnh về hành vi trong thực tế để bảo đảm an toàn, phòng chống cháy nổ, có kỹ năng PCCC và ngược lại.
Tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện pháp luật về PCCC là nhiệm vụ thường xuyên không chỉ của các cơ quan Nhà nước về PCCC mà của cả hệ thống chính trị. Hoạt động này cần đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, huấn luyện nghiệp vụ PCCC phong phú, thiết thực và phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương, cơ sở. Đẩy mạnh tuyên truyền PCCC trực tiếp tại các cơ quan, doanh nghiệp và khu dân cư.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCCC. Hệ thống các khung pháp lý này bao gồm các văn bản QPPL, các quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC. Cho đến nay, các quy chuẩn, tiêu chuẩn cụ thể về PCCC chưa được ban hành như: Quy chuẩn PCCC nhà máy điện, quy chuẩn PCCC các công trình ngầm, quy chuẩn PCCC các công trình siêu cao tầng, quy chuẩn trang bị phương tiện PCCC cho nhà và công trình do đó việc thực hiện các quy định về PCCC của một công trình xây dựng chưa được đầy đủ và hiệu quả chưa được như mong muốn. Ngoài ra, các quy định về trách nhiệm của người đứng đầu trong việc để xảy ra cháy nổ tại cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được quy định rõ ràng và chặt chẽ điều này dẫn đến thực tế trách nhiệm của người đứng đầu trong một số vụ việc xảy ra cháy nổ tại các địa phương chưa cao, gây khó khăn cho hoạt động QLNN về PCCC.
Thứ ba, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng lực lượng QLNN về PCCC. Tổ chức bộ máy QLNN về PCCC cần được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương, tinh gọn nhưng hiệu quả, giảm các bậc trung gian, phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng và có sự phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, cơ quan, tổ chức khác trong việc thực hiện nhiệm vụ QLNN về PCCC. Cần đặc biệt chú ý đến việc phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng để nâng cao tinh thần trách nhiệm, hiệu quả công việc được cao hơn.
Thứ tư, xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, chiến sỹ cảnh sát PCCC theo hướng nâng cao trình độ, chất lượng, được bố trí hợp lý, khoa học và hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả. Để làm được điều này cần thực hiện các khâu như đào tạo đầu vào tại các cơ sở đào tạo về PCCC của ngành trên cả nước. Sau quá trình đào tạo là phân công, bố trí công việc hợp lý, đãi ngộ xứng đáng, khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh. Đội ngũ cán bộ, chiến sỹ cảnh sát PCCC với đặc thù hoạt động nghề nghiệp nguy hiểm, độc hại nên cần được trang bị các công cụ, phương tiện bảo hộ đặc biệt để bảo đảm an toàn khi thực hiện nhiệm vụ, ngoài ra chế độ lương thưởng và các chế độ khác cũng cần được xem xét, bố trí cân đối hợp lý với đặc thù hoạt động nghề nghiệp của cán bộ, chiến sỹ.
Thứ năm, tăng cường cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động QLNN về PCCC. Cơ sở vật chất về PCCC cần được ưu tiên bố trí ngân sách trang bị mới và hiện đại, ví dụ như hệ thống các xe chữa cháy chuyên dụng, các xe thang có độ tiếp cận tầm cao tốt hơn trong bối cảnh các khu chung cư cao tầng được xây dựng ngày càng nhiều tại các đô thị. Ngoài ra, phải kể đến các thiết bị như đồ bảo hộ cho cán bộ, chiến sỹ tham gia PCCC (mặt nạ phòng độc, áo đặc biệt cho ngành PCCC…) và hệ thống các bể nước, đường ống dẫn nước cần được trang bị hiện đại, công suất lớn. Chú trọng hơn nữa đến ứng dụng công nghệ thông tin trong cảnh báo cháy để rút ngắn thời gian tiếp cận các vụ cháy và có đối sách kịp thời, hiệu quả hơn khi xảy ra cháy.
Thứ sáu, thực hiện nghiêm việc thẩm duyệt về PCCC các dự án, công trình, ngay từ khi lập quy hoạch để đảm bảo yêu cầu về PCCC. Vấn đề này cần được thực hiện nghiêm túc, chất lượng để ngăn ngừa những nguy cơ đầu vào dẫn đến cháy, nổ trong tương lai. Để thực hiện tốt điều này phụ thuộc vào các quy định nghiêm minh của pháp luật về thểm duyệt PCCC, sự trung thực, năng lực, tính minh bạch của đội ngũ những người làm công tác thẩm duyệt của Ngành. Ngoài ra, cần bổ sung các quy định, chế tài mạnh hơn để xử lý những tổ chức, cá nhân bỏ qua hoặc làm trái các quy định về thẩm duyệt PCCC.
Thứ bảy, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về PCCC. Đây là hoạt động cần được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm bảo đảm các quy định của pháp luật về PCCC được thực hiện trong thực tế. Cần có kế hoạch thanh tra, kiểm tra chặt chẽ, kịp thời; xây dựng đội ngũ thanh tra viên trung thực, tuân thủ pháp luật. Đồng thời, cần phải tăng cường vận động người dân tham gia giám sát hoạt động QLNN về PCCC theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
ThS. TRẦN QUANG VỊNH
Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy