Quản trị tài nguyên nước tại Việt Nam trước thách thức của biến đổi khí hậu

Thứ năm, 2/12/2021, 15:21 (GMT+7)
logo Việt Nam cần cải cách thể chế trong quản trị để quản lý TNN, tổ chức bộ máy xây dựng Đề án về thành lập tổ chức lưu vực sông. Theo đó, trong năm 2020 và những năm tiếp theo, cần hướng tới thành lập Trung tâm tích hợp dữ liệu vùng, trước mắt là Trung tâm tích hợp dữ liệu ĐBSCL, tiếp theo là các lưu vực khác. Đây là việc rất quan trọng. Đồng thời có thể khuyến khích xã hội hóa trong quản lý TNN; đưa ra những kế hoạch phù hợp nhất, tập trung nguồn lực của các đơn vị TNN để giải quyết hệ thống thông tin chung về quản lý TNN.

Quản trị tài nguyên nước tại Việt Nam trước thách thức của biến đổi khí hậu

Ảnh minh họa

Những thách thức

Thực tế hiện nay cho thấy, nguồn TNN và việc quản lý và khai thác nguồn TNN đã, đang phải chịu nhiều sức ép lớn và đối mặt với một số vấn đề khó khăn và thách thức lớn. Việc cạnh tranh, mâu thuẫn trong sử dụng TNN đã xảy ra và ngày càng gia tăng. Hoạt động khai thác TNN phía thượng nguồn ở phạm vi ngoài Việt Nam phục vụ cho các mục đích phát triển năng lượng thủy điện, thủy lợi phục vụ cho công nghiệp, nông nghiệp… đã có những tác động và ảnh hưởng tiêu cực đến quốc gia phía hạ nguồn, đặc biệt là vấn đề hạn hán, xâm nhập ở khu vực ĐBSCL những năm qua. Ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng cả về mức độ, quy mô, nhiều nơi có nước nhưng không thể sử dụng do nguồn nước bị ô nhiễm. Nguồn nước mặt ở hầu hết các khu vực đô thị, KCN, làng nghề đều đã bị ô nhiễm, một số nơi tình trạng ô nhiễm đã ở mức nghiêm trọng như lưu vực sông Nhuệ Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai – Sài Gòn.

Thời gian qua, Chính phủ nói chung và Bộ TN&MT nói riêng đã ưu tiên vấn đề này và khẳng định rõ: Nước là nguồn tài nguyên thiết yếu cho cuộc sống của con người, sự phát triển bền vững của quốc gia và là ưu tiên hàng đầu tiến tới phát triển bền vững trong thời gian tới. Cùng với những chuyển biến về nhận thức, nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến việc giải quyết các vấn đề TNN đã được ban hành và triển khai thông qua những kế hoạch hành động và giải pháp thiết thực, cụ thể ở cả cấp trung ương cho đến địa phương. Song tác động BĐKH trên toàn cầu ngày càng mạnh mẽ lại đặt ra thêm nhiều khó khăn và thách thức cho vấn đề quản lý bền vững TNN của Việt Nam trong thời gian tới.

Một trong những thách thức trong quản trị bền vững TNN ở Việt Nam là tác động của BĐKH&NBD, xâm nhập mặn. hiện tượng bất thường của khí hậu, thời tiết đã xảy ra liên tục. Mực nước biển dâng cao dẫn tới ngập lụt vùng ven biển; gia tăng tình trạng xâm nhập mặn vùng cửa sông, đồng bằng ven biển; gây xói lở, sa bồi làm đảo lộn cân bằng tự nhiên và sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến vùng ven bờ; gia tăng ngập lụt vùng đồng bằng, hàng triệu ha vùng ven biển có thể bị chìm ngập, hàng trăm ha rừng ngập mặn có thể bị mất, các HST đất ngập nước ven bờ bị tác động sâu sắc.

Biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, thiên tai có diễn biến cực đoan và phức tạp. Cạn kiệt, thiếu hụt nguồn nước trên các hệ thống sông trong mùa kiệt đang làm suy giảm năng lực của hệ thống thủy lợi, nhất là các hệ thống xây dựng trong các giai đoạn trước; hạ thấp mực nước trên dòng chính các sông khiến một số trạm bơm, cống lấy nước lớn có khả năng phải dừng hoạt động dẫn đến phải bổ sung công trình thay thế làm tăng thêm chi phí đầu tư, chi phí sản xuất.

Thách thức trong quản lý TNN ở Việt Nam là việc quản lý toàn bộ chu trình nước để đạt được lợi ích tối đa, bảo đảm chất lượng nước, quản lý mức độ rủi ro cao và gia tăng, bảo đảm đủ nước sạch cho vùng nông thôn cũng như hệ động, thực vật của Việt Nam. TNN của Việt Nam là nguồn tài nguyên quý giá nhất nhưng không phải vô hạn. Vì vậy,Việt Nam cần quản lý nước hợp nhất. Cụ thể, người dân, doanh nghiệp, cơ quan và chính quyền trung ương và địa phương cần phối hợp để thu được những giá trị về nước tốt nhất trong suốt chu kỳ và bảo vệ TNN cho thế hệ tương lai.

Để tăng cường quản trị TNN dưới đất cần phải thực hiện các giải pháp đồng bộ như: Hoàn thiện chính sách pháp luật, chiến lược về TNN; chủ động thích ứng với diễn biến thời tiết cực đoan và việc phụ thuộc vào các quốc gia sử dụng nước ở thượng nguồn; đẩy mạnh công tác quan trắc, giám sát và bảo vệ TNN, đặc biệt là các nguồn nước liên quốc gia; tăng cường ứng dụng KHCN và huy động các nguồn lực hợp tác quốc tế trong điều tra, đánh giá và quản lý TNN. Và quan trọng là tăng cường nâng cao nhận thức cộng đồng về việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn TNN.

Cải cách thể chế, đổi mới tư duy trong quản trị tài nguyên nước

Nhiệm vụ trọng tâm năm 2020: Hoàn thành việc đánh giá, tổng kết việc thi hành Luật TNN năm 2012, đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung Luật, dự kiến hoàn thành vào năm 2020. Trên cơ sở đánh giá, tổng kết việc thi hành Luật, Cục sẽ trình Bộ xem xét chủ trương sửa đổi và đề nghị đưa Luật TNN sửa đổi, bổ sung vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội khóa XV, từ năm 2021 đến năm 2025; tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung Nghị định 82/2017/ NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác TNN và Nghị định 201/2013/ NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật TNN.

“Việt Nam - Hướng tới một hệ thống nước có tính thích ứng, sạch và an toàn”, theo đó Bộ TN&MT tập trung các giải pháp: Đánh giá, tổng kết thực hiện Luật TNN, kiến nghị sửa đổi; rà soát các vấn đề chồng chéo trong khung pháp lý hiện hành liên quan đến chức năng nhiệm vụ của các Bộ, ngành liên quan đến công tác quản lý TNN; kiến nghị giải pháp quản lý TNN thống nhất, hiệu quả; Nghiên cứu, đề xuất tăng cường các giải pháp về kinh tế nước, bảo đảm sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; tăng cường nguồn thu trong lĩnh vực TNN và cơ chế đầu tư lại cho hoạt động quản lý, bảo vệ TNN; Phối hợp với các bộ, ngành địa phương liên quan rà soát các cơ chế liên quan đến kiểm soát ô nhiễm các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, đô thị…để thống nhất các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách giải quyết tình trạng ô nhiễm trên các LVS; Tăng cường hoạt động của Hội đồng quốc gia TNN và các tổ chức LVS; và tăng cường công tác thanh, kiểm tra, xử phạt các hành vi vi phạm trong lĩnh vực TNN, đặc biệt liên quan đến hoạt động xả nước thải vào nguồn nước.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác quy hoạch TNN, lập Quy hoạch TNN quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; đẩy mạnh hoạt động lập quy hoạch tổng hợp các lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh; tăng cường công tác quan trắc, giám sát; xây dựng cơ sở dữ liệu TNN và hệ thống hỗ trợ ra quyết định trên các LVS; tăng cường công tác bảo vệ TNN; triển khai thực thi hiệu quả Nghị định 167/2018/NĐ-CP quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất; đẩy mạnh công tác điều tra tìm kiếm nguồn nước dưới đất ở vùng khan hiếm nước, thiếu nước, hải đảo; tập trung thanh tra, kiểm tra trọng tâm, trọng điểm đối với việc chấp hành các quy định của pháp luật về TNN trong hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng TNN; triển khai thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH.

Để triển khai những nhiệm vụ này, Cục Quản lý TNN đề xuất Bộ cho phép xây dựng đề án “Tăng cường quản trị TNN”; cân đối, bổ sung kinh phí cho một số dự án ưu tiên thực hiện để bảo đảm tiến độ như Dự án “Xây dựng hệ thống theo dõi và quản lý diễn biến nguồn nước mặt, nước dưới đất và hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả thải vào nguồn nước phục vụ giám sát việc tuân thủ giấy phép TNN và công tác chỉ đạo điều hành”; Dự án “Điều tra, đánh giá việc khai thác, sử dụng nước dưới đất, tác động đến sụt lún bề mặt đất khu vực TP. Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, ĐBSCL, định hướng quản lý, khai thác, sử dụng bền vững TNN dưới đất”.

Trung tâm Quy hoạch và Điều tra TNN quốc gia sẽ tập trung vào các nhiệm vụ như: Xây dựng, hoàn thiện các VBQP sửa đổi, bổ sung các văn bản liên quan đến công tác quy hoạch TNN, điều tra, đánh giá, bảo vệ TNN, quan trắc, dự báo và cảnh báo TNN; tập trung thực hiện các dự án, nhiệm vụ Chính phủ giao như: Dự án “Điều tra tìm kiếm nguồn nước dưới đất tại các vùng núi cao, vùng khan hiếm nước”; Dự án “Điều tra, đánh giá chi tiết TNN phục vụ xây dựng công trình cấp nước cho các đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam… Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ: Quy hoạch TNN; Quan trắc quốc gia TNN;… Rà soát, tập trung thực hiện các nhiệm vụ cấp bách như suy giảm môi trường nước và không khí ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người và sự phát triển KT-XH địa phương.

Ủy ban sông Mê Công Việt Nam tập trung vào: Nhiệm vụ chiến lược tham mưu giúp Chính phủ về tiếp tục theo sát tình hình khai thác, sử dụng TNN và các tài nguyên có liên quan trên LVS Mê Công; triển khai thực hiện Đề án Chính phủ “Đề án tổng thể về ảnh hưởng phát triển thủy điện dòng chính sông Mê Công làm cơ sở xác định chủ trương đối sách của Việt Nam” (giai đoạn 2019-2020).

VŨ THỊ NHUNG; CHU LÂM SƠN

                Khoa kinh tế Tài nguyên và Môi trường

                 Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội