
Thực trạng và xu hướng
Tài nguyên khoáng sản có vai trò quan trọng đối con người và quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Ngày nay, trước những thách thức của biến đổi khí hậu và nhu cầu năng lượng sạch, khoáng sản một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển. Chúng ta chưa thể tách rời với hoạt động khai thác khoáng sản, tuy nhiên lĩnh vực này đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng đó là tác động tiêu cực tới môi trường và xã hội như phát thải khí nhà kính, thải các chất độc hại ra môi trường, ô nhiễm đất, ô nhiễm nguồn nước, tác động tiêu cực đến những nhóm dễ tổn thương như phụ nữ, trẻ em,…
Cần có một “giấy phép xã hội” để các tập đoàn, doanh nghiệp khai khoáng hoạt động
Điều kiện làm việc khắc nghiệt, nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng đã xảy ra, các tập đoàn, doanh nghiệp khai khoáng lớn trên thế giới đang chịu rất nhiều áp lực từ các bên liên quan. Họ được yêu cầu tăng cường quản lý, tăng cường công khai, minh bạch về các tác động tới môi trường và xã hội. Các dự án khai thác mới thường vấp phải những sự phản đối của các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng địa phương nơi có khoáng sản, họ lo ngại rằng dự án khai thác sẽ không mang lại lợi ích như kì vọng và nguy cơ rủi ro xảy ra lớn hơn rất nhiều so với dự báo. Những thảm họa môi trường nghiêm trọng làm cho sinh kế người dân khu vực khai thác bị ảnh hưởng, niềm tin của họ đối với chính quyền và doanh nghiệp bị lung lay.
Trước những thách thức đó, yêu cầu công khai thông tin phi tài chính, thông tin về những tác động môi trường, xã hội mà hoạt động khai thác gây ra đã được các tổ chức xã hội khuyến nghị và thúc đẩy áp dụng như là những sáng kiến, giải pháp quan trọng nhằm tạo ra một “giấy phép xã hội” để cho các tập đoàn, doanh nghiệp khai khoáng hoạt động. Để làm được điều đó, doanh nghiệp khai khoáng cần tự nguyện xây dựng các báo cáo bền vững. Các sáng kiến luận giải rằng, trước khi thực hiện khai thác, các tập đoàn, doanh nghiệp khai khoáng đã có những dự báo tác động tới môi trường và xã hội và họ đã có những hứa hẹn,cam kết đối với chính quyền và cộng đồng địa phương nơi khai thác. Tuy nhiên, khi thực tế diễn ra, kì vọng của người dân địa phương, cộng đồng bản địa không được đáp ứng, điều này đe dọa đến sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp, đe dọa đến sự phát triển của ngành khai khoáng. Trong một thời gian dài, doanh nghiệp khai khoáng đã không quan tâm tới những tác động tiêu cực của hoạt động khoáng sản tới môi trường, xã hội, chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế mà nó mang lại. Nay, bên cạnh mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện bảo vệ môi trường và đảm bảo an sinh xã hội, cộng đồng khu vực khai thác đã được bổ sung vào chiến lược, kế hoạch phát triển của doanh nghiệp khai khoáng nói riêng và cho ngành khai khoáng nói chung.
Ngành công nghiệp khai khoáng là ngành dẫn đầu được các tổ chức xã hội, các bên liên quan thúc đẩy, yêu cầu thực hiện các báo cáo tự đánh giá tác động môi trường và xã hội. Các sáng kiến đề xuất doanh nghiệp khai khoáng tự xây dựng báo cáo ghi nhận các thông tin cập nhật, liên tục về môi trường, xã hội để rồi sau đó các thông tin này sẽ được công khai cho các bên liên quan trong hoạt động khai khoáng (cơ quan nhà nước liên quan, cộng đồng khu dân dư, nhà đầu tư, các sàn giao dịch chứng khoán…). Việc xây dựng các báo cáo ghi lại những tác động hoạt động khai thác của doanh nghiệp tới môi trường, xã hội là cách để doanh nghiệp thấy được khoảng trống giữa việc cam kết của họ trong việc BVMT và phát triển KT-XH,… với thực tế đang diễn ra. Sau đó, doanh nghiệp sẽ chủ động công khai các thông tin phi tài chính nêu trên tới các bên liên quan trong hoạt động khoáng sản. Phương thức quản trị này được các nhà nghiên cứu quốc tế xác định là “hệ thống quản trị theo định hướng thị trường phi nhà nước”.
Xây dựng “báo cáo phát triển bền vững” góp phần quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản
Đây là cách thức các doanh nghiệp khai khoáng tự đánh giá, tự xây dựng báo cáo đánh giá, tự công khai thông tin cho các bên liên quan. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, quá trình tự đánh giá, tự giám sát sẽ phát hiện được các lỗ hỗng giữa những chỉ số phát triển bền vững đã cam kết và thực tiễn đang diễn ra. Báo cáo phát triển bền vững kì vọng sẽ cung cấp cho người đọc những thông tin chi tiết được chuẩn hóa, được đo lường và có thể so sánh về hiệu quả giữa cam kết và thực tiễn, về những tác động của hoạt động khai khoáng tới môi trường, an sinh, xã hội của người dân. Và từ đó, báo cáo sẽ cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước, giúp cơ quan quản lý nhà nước hiểu rõ hơn về những việc mà doanh nghiệp đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ như thế nào đối với cộng đồng, địa phương nơi họ khai thác. Thông tin trong các báo cáo phát triển bền vững của doanh nghiệp khai khoáng thông thường được công bố, kiểm toán và giám sát bởi bên thứ ba trong quá trình thực hiện. Báo cáo bền vững được xem là một trong những công cụ quan trọng để chuyển thông tin về các giải pháp đảm bảo môi trường, đảm bảo phát triển kinh tế, xã hội cũng như những giải pháp quản trị tốt,… đến với người dân, đến với các bên liên quan của quá trình khai thác. Ngoài hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển bền vững của công ty, báo cáo phát triển bền vững cho phép các bên liên quan của công ty theo dõi hiệu quả hoạt động của dự án khai thác cũng như xác định những rủi ro và cơ hội phát triển.
Các doanh nghiệp khai khoáng thực hiện xây dựng báo cáo về hoạt động bền vững của họ vì nhiều lý do: Thứ nhất, nhằm đáp ứng các quy định quốc gia và yêu cầu quốc tế; Thứ hai, nhằm đáp ứng những yêu cầu của nhà đầu tư, yêu cầu của sàn giao dịch chứng khoán, cũng như duy trì và củng cố uy tín của công ty. Báo cáo bền vững giống như những “giấy phép xã hội” để các công ty khai khoáng tham gia vào thị trường, vào các sàn giao dịch chứng khoán quốc tế… Tuy nhiên, thực trạng báo cáo bền vững hiện nay trong lĩnh vực khai khoáng chưa đáp ứng đủ yêu cầu thông tin khác nhau của các bên liên quan. Khó khăn, thách thức được xác định là thiếu tầm nhìn chung toàn cầu trong lĩnh vực này, chưa có chỉ số để đo lường hiệu quả hoạt động khai khoáng cấp mỏ. Cần một khung báo cáo rõ ràng, hoàn thiện và thống nhất hơn nữa để các tập đoàn, công ty khai thác có thể thông báo, công khai cho các bên liên quan về những hoạt động thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của mình.
Các nghiên cứu đã chỉ ra vấn đề tồn tại phổ biến hiện nay trong thực hiện báo cáo bền vững ở các tập đoàn, công ty khai thác lớn là các báo cáo được thực hiện ở cấp độ thông tin chung chung, thiếu chi tiết. Các tổ chức xã hội đang hoàn thiện các sáng kiến hướng đến mục tiêu xây dựng, thực hiện các báo cáo ở cấp độ mỏ, khu vực khai thác. Bên cạnh đó, các báo cáo cần được giám sát, xác minh, bảo đảm bởi bên thứ ba có uy tín, trách nhiệm. Bởi thực tế đã chứng minh rằng, việc giám sát, bảo đảm của bên thứ ba sẽ tăng cường hiệu quả, chất lượng của các báo cáo từ đó sẽ đảm bảo mục tiêu mà quá trình thực hiện hướng đến. Đây cũng chính là nhu cầu của doanh nghiệp bởi họ cho rằng thực hiện được các báo cáo ở cấp độ mỏ, có nghĩa rằng họ sẽ có được thông tin hợp pháp xác nhận nguồn gốc sản phẩm của họ là “sản phẩm khai thác có trách nhiệm”. Họ nhận thức rằng, người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến những sản phẩm, hàng hóa có trách nhiệm đối với môi trường và xã hội. Người tiêu dùng ngày càng có thói quen truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa, nguồn gốc nguyên liệu sản xuất sản phẩm hàng hóa. Chính vì vậy, những sáng kiến tự nguyện đã được thành lập trong những năm gần đây nhằm đáp ứng nhu cầu đó của người tiêu dùng cũng như nhu cầu của các bên liên quan trong hoạt động khai khoáng thông qua cách tiếp cận chuỗi cung ứng ngành khai khoáng vô cùng phức tạp. Những sáng kiến này yêu cầu các bên liên quan trong chuỗi cung ứng ngành khai khoáng cung cấp, chia sẻ thông tin theo nhiều cấp độ khác nhau. Mỗi cấp độ/bộ phận trong chuỗi cung ứng được yêu cầu xây dựng, thực hiện, báo cáo và công khai, minh bạch thông tin theo những khung cơ bản khác nhau. Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy, tăng cường xây dựng, thực hiện báo cáo cũng như đóng vai trò quan trọng trong quá trình công khai, minh bạch thông tin. Ví dụ, Chính phủ sẽ ban hành các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật… Chính phủ cũng có thể tham gia với các sáng kiến tự nguyện trong một số hoạt động nhằm đưa ra được các giải pháp phù hợp, hiệu quả để quá trình thực hiện báo cáo bền vững hiệu quả hơn.
Mục tiêu phát triển bền vững được thông qua năm 2015 tạo ra cơ hội và môi trường thuận lợi để chính phủ các nước hợp tác, cùng nhau giải quyết các vấn đề về môi trường và xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác khoáng sản. Hoạt động khai thác khoáng sản liên quan đến tất cả 17 mục tiêu phát triển bền vững ở những phạm vi và mức độ khác nhau, trong đó mục tiêu liên quan nhất đến hoạt động khoáng sản đó là mục tiêu phát triển bền vững số 8 về việc làm và tăng trưởng kinh tế và mục tiêu số 12 là về tiêu dùng và sản xuất có trách nhiệm. Mặc dù các báo cáo thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững là do chính phủ các quốc gia thực hiện, tuy nhiên các doanh nghiệp/công ty khai khoáng có vai trò quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường, xã hội và tối đa hóa sự đóng góp cho sự phát triển KT-XH nhằm góp phần quan trọng để thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững.
Các sáng kiến nêu trên hướng dẫn thực hiện báo cáo bền vững xoay quanh các chủ đề về môi trường, phát triển bền vững và quản trị hiệu quả hoạt động khai khoáng. Bên cạnh đó, cũng có những sáng kiến liên quan đến quy trình thẩm định các dự án khai thác, các sáng kiến này lồng ghép các vấn đề quyền con người, quyền tự do cá nhân, quyền của người dân bản địa và cơ chế mua sắm địa phương khu vực khai thác,… Thực tế các tiêu chuẩn, nội dung, tiêu chí môi trường, phát triển bền vững và quản trị hiệu quả trong các sáng kiến, khung báo cáo là rất rộng, do vậy các doanh nghiệp, dự án có thể chọn sử dụng các tiêu chuẩn dành riêng cho chủ đề trực tiếp trong báo cáo bền vững của họ và các quy trình thẩm định liên quan.
Ngoài ra, một số sáng kiến bền vững tự nguyện tập trung vào tăng cường tính minh bạch trong chuỗi cung ứng khoáng sản đã được khởi xướng trong những năm gần đây. Sự hình thành các sáng kiến bền vững tự nguyện là nhu cầu của xã hội dân sự, nhu cầu của các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính,…
Chính phủ là thiết chế được sử dụng các đánh giá tác động môi trường để chỉ ra lĩnh vực, hoạt động nào cần được chủ trọng trong các báo cáo bền vững ở cấp độ mỏ. Chính phủ có vai trò quan trọng để việc thực hiện các báo cáo bền vững được khả thi, đó là việc ban hành các chính sách, kế hoạch hành động và các sáng kiến hợp tác với các doanh nghiệp,… Sáng kiến minh bạch hợp tác với các chính phủ trên toàn thế giới để tăng cường tính minh bạch trong lĩnh vực khai khoáng. Báo cáo thực hiện theo các tiêu chuẩn mà Sáng kiến minh bạch xây dựng chủ yếu tập trung vào tính minh bạch của các khoản thanh toán từ các công ty khai thác cho chính phủ, các phiên bản cập nhật sau này, Sáng kiến minh bạch đã tập trung nhiều hơn và các vấn đề môi trường, xã hội. Điều này là những cơ hội để các Sáng kiến bền vững tự nguyện cùng với chính phủ các nước nâng cao tính minh bạch trong hoạt động khai khoáng cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp khai khoáng là cách thức truyền tải các thông tin mà họ đã có, đã thực hiện cho các bên liên quan. Câu hỏi đặt ra đối với doanh nghiệp là làm thế nào để báo cáo bền vững họ mang lại ý nghĩa đối với quốc gia, địa phương, cộng đồng nơi có khoáng sản khai thác. Đó chính là việc chuyển các báo cáo từ cấp độ tập đoàn, toàn cầu thành các báo cáo chi tiết, chi tiết đến cấp độ mỏ. Họ cần chia sẻ thông tin tới nhiều bên liên quan và đặc biệt cần chú ý là chia sẻ đối với nước chủ nhà, địa phương nơi tiến hành khai thác khoáng sản. Công nghệ hiện đại ngày nay cho phép chúng ta theo dõi một cách thường xuyên, theo chuỗi thời gian thực về các chỉ số môi trường, xã hội. Thông qua công nghệ, các bên liên quan sẽ cùng nhau theo dõi các thông tin, chỉ số giám sát chất lượng môi trường xã hội và những thông tin này sẽ là nguồn thông tin đầu vào cho các báo cáo bền vững của chính phủ nhằm hướng tới thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững.
ThS. NGUYỄN THỊ KIM NGÂN; ThS. LƯƠNG THỊ THÙY LINH
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường