
PV: Xin bà cho biết thực trạng quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên nước và phòng chống tác hại do nước gây ra trên địa bàn tỉnh Sơn La hiện nay?
Bà Lê Thị Thu Hằng: Công tác quản lý tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh được Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan tâm, chỉ đạo. Sở Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho UBND tỉnh tăng cường tuyên truyền về công tác quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên nước; xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương và địa phương về lĩnh vực tài nguyên nước; phê duyệt các quy hoạch phân bổ và bảo vệ tài nguyên nước theo quy định của Luật Tài nguyên nước; xây dựng Phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trong Quy hoạch tỉnh; xây dựng Kế hoạch và triển khai công tác điều tra cơ bản tài nguyên nước theo Quyết định số: 432/QĐ-TTg ngày 24/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ; xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tài nguyên nước để kết nối với cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia.
Là tỉnh có tiềm năng phát triển thủy điện, công tác quản lý các dự án thủy điện được quan tâm thực hiện nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng của các dự án tới sản xuất nông nghiệp, dân sinh và môi trường. Việc cấp phép trong lĩnh vực tài nguyên nước được triển khai thực hiện đáp ứng các quy định pháp luật và yêu cầu thực tiễn. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có 183 giấy phép tài nguyên nước. Trong đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp 62 giấy phép, UBND tỉnh cấp 121 giấy phép.
Công tác bảo vệ tài nguyên nước được quan tâm thực hiện. Tỉnh đã phê duyệt Danh mục hành lang bảo vệ nguồn nước; vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải của nguồn nước; phê duyệt dòng chảy tối thiểu trên các suối chính; cắm mốc vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt.
Đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh chưa có các nguồn nước bị ô nhiễm, nguồn nước cấp cho sinh hoạt và sản xuất được đảm bảo. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khai thác sử dụng tài nguyên nước nhằm phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện thường xuyên, góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về bảo vệ và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên nước.
Để phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, tỉnh đã phê duyệt danh mục hồ ao không được san lấp; toàn bộ các công trình thủy lợi, thủy điện đều vận hành theo Quy trình vận hành hồ chứa đã được phê duyệt; một số khu vực sụt lún đất (bản Xum, bản Lo huyện Mai Sơn) đã được UBND tỉnh tổ chức điều tra, đánh giá, xác định nguyên nhân để đề xuất giải pháp khắc phục giúp người dân trong khu vực yên tâm sinh sống và sản xuất.
Bà Lê Thị Thu Hằng, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sơn La
PV: Bà có thể chia sẻ những khó khăn, vướng mắc trong quản lý, bảo vệ và khai thác bền vững tài nguyên nước tại địa phương?
Bà Lê Thị Thu Hằng: Hiện tại những bất cập về quản lý, khai thác bền vững tài nguyên nước chủ yếu do chưa rõ một số điểm trong Luật Tài nguyên nước và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Cụ thể: Khái niệm “nước mặt”, “nước dưới đất” định nghĩa chưa được chi tiết tại Luật Tài nguyên nước năm 2012 và Dự thảo lần thứ 5 (DT5) đang gây khó khăn trong quá trình thực thi do đối tượng thuộc diện cấp phép có sự chênh lệch rất lớn (nước mặt: từ 100 m3/ngày đêm, nước dưới đất: từ 10 m3/ngày đêm trở lên) nên các tổ chức, cá nhân đang lợi dụng để lách luật. Đề nghị Luật có giải thích từ ngữ rõ hơn tránh hiểu đa nghĩa.
Tại Điều 2 Luật Tài nguyên nước năm 2012 và Điều 8 DT5 có quy định việc lấy ý kiến của tổ chức lưu vực sông. Tuy nhiên, không có văn bản quy định trình tự, thủ tục lấy ý kiến của tổ chức lưu vực sông. Luật Tài nguyên nước năm 2012 và Điều 84 DT5 quy định về giải quyết tranh chấp tài nguyên nước từ cấp xã đến cấp tỉnh. Tuy nhiên không có hướng dẫn về trình tự, quy trình giải quyết tranh chấp. Đề nghị giao Chính phủ hoặc Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn để địa phương có cơ sở thực hiện. Việc tính toán số lợi bất hợp pháp trong xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực tài nguyên nước tại Luật Tài nguyên nước năm 2012 không có hướng dẫn chi tiết gây khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện (cụ thể không hướng dẫn chi phí trực tiếp gồm những chi phí nào).
Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định việc "xả nước thải vào nguồn nước", "nghiêm cấm xả nước thải vào lòng đất thông qua các giếng khoan, giếng đào và các hình thức khác…" dẫn đến khó khăn trong quá trình tìm kiếm nguồn nước tiếp nhận nước thải sau khi xử lý do đặc điểm địa hình miền núi dốc, địa hình chia cắt, nhiều dòng suối không có nước chảy thường xuyên, chỉ có nước vào mùa mưa, mùa khô cạn kiệt.
Việc triển khai thực hiện các Đề án, Dự án, Nhiệm vụ, Chương trình thuộc lĩnh vực tài nguyên nước theo quy định của Luật còn gặp nhiều khó khăn do một số nhiệm vụ không có hướng dẫn chi tiết, cụ thể quy trình, định mức kinh tế kỹ thuật dẫn đến kéo dài thời gian lập, thẩm định, triển khai thực hiện; nguồn kinh phí chủ yếu là ngân sách nhà nước, chưa có cơ chế rõ ràng cho khuyến khích việc xã hội hóa để triển khai nội dung này.
Cán bộ chuyên ngành nỗ lực nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước
PV: Vậy, Sở đã có tham mưu, đề xuất gì nhằm tháo gỡ những bất cập nêu trên thưa bà?
Bà Lê Thị Thu Hằng: Ngày 13/10/2022, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sơn La đã có Công văn số 3780/STNMT-TNN, KS&KTTV góp ý Dự thảo Luật Tài nguyên nước đối với Cục Quản lý tài nguyên nước, nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quản lý.
Tại Điều 1: DT5 bổ sung khái niệm “phát triển” tuy nhiên chưa làm rõ phát triển là như thế nào (phát triển nguồn nước hay phát triển tài nguyên nước, phát triển nguồn sinh thủy?). Đề nghị bổ sung vào Điều 3. Giải thích rõ khái niệm này. Điều 5: Nội dung của điều này về “Nguyên tắc quản lý, bảo vệ,…”. Do vậy, nội dung Khoản 10 “Đảm bảo an ninh nguồn nước” đặt trong điều này là chưa phù hợp, đề nghị tách thành Điều khoản riêng. Tại Điều 6: Chuyển Khoản 1 sang Điều 5 đảm bảo phù hợp với nguyên tắc. Đề nghị xem xét nội dung “Có cơ chế khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước” có phù hợp? Nội dung này nên do Nhà nước thực hiện để đảm bảo “an ninh nguồn nước”. Tại Khoản 2 đề nghị bổ sung nội dung Nhà nước “bố trí kinh phí” để “đảm bảo an ninh nguồn nước”. Lý do: Việc đảm bảo an ninh nguồn nước là đảm bảo về chất lượng, số lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống thuộc trách nhiệm của Nhà nước.
Tại Điều 12: Đề nghị xem lại tính khả thi của Luật đối với nội dung Khoản 4. Các hành vi bị nghiêm cấm: “Lấp sông, suối, kênh, rạch”. Cần làm rõ nguồn nước có chức năng nào theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 thì bị cấm hay tất cả “sông, suối, kênh, rạch” đều bị cấm lấp?
Tại Điều 27: Việc quy định các “Cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân sinh sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong phạm vi hành lang bảo vệ nguồn nước” phải đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ nguồn nước
là khó khả thi. Đối với phạm vi hành lang bảo vệ nguồn nước có chức năng sinh hoạt nên quy định cấm sinh sống và hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Điều 28: Để đảm bảo sự khách quan, việc đánh giá, thẩm định kết quả xác định dòng chảy tối thiểu nên thành lập Hội đồng thẩm định bao gồm các cơ quan liên quan và các chuyên gia trong lĩnh vực tài nguyên nước.
Tại Điều 31: Khoản 2 quy định: “2. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm sau đây: a) Xác định và công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt trong phạm vi địa phương”. Đề nghị sửa thành “Phê duyệt và công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước…” Lý do: Hiện nay, các công trình lấy nước sinh hoạt đều do các tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành và kinh doanh. Do đó, việc xác định vùng bảo hộ vệ sinh phải là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đó.
Tại Điều 47: Nội dung Khoản 5 cấp giấy phép tài nguyên nước đối với “tổ chức, cá nhân thăm dò, khai thác, sử dụng nước dưới đất trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi” đang có sự trùng lặp với quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 44 Luật Thủy lợi. Theo đó, các hoạt động này đã được cấp phép theo quy định tại Điều 16 của Luật Thủy lợi.
Tại Điều 66: Nội dung Khoản 3 chưa phù hợp. Lý do: Trường hợp cơ quan cấp phép khai thác khoáng sản là UBND cấp tỉnh, cơ quan thẩm định là Sở Tài nguyên và Môi trường thì việc “cơ quan cấp giấy phép khoáng sản phải lấy ý kiến bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tài nguyên nước” là không phù hợp và sẽ được thực hiện như thế nào (do 02 cơ quan đều thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường đồng thời là cơ quan thẩm định)? Điều 79: Khoản 4 đề nghị bỏ cụm từ “nhà máy nhiệt điện”.
PV: Trân trọng cảm ơn bà!
Nhất Nam - Đỗ Hùng