
Cấp thiết phải sửa đổi Luật
Phó Chủ tịch Tổng hội Địa chất Việt Nam Hoàng Văn Khoa cho hay, sau 13 năm Luật Khoáng sản 2010 đi vào cuộc sống, hoạt động khai khoáng đã mang lại giá trị kinh tế không nhỏ cho đất nước. Trong đó, riêng cấp quyền khai thác khoáng sản, trong giai 10 năm qua, Nhà nước đã phê duyệt khoảng trên 52.000 tỷ đồng. Đến nay, Nhà nước đã thu vào ngân sách khoảng 29.659 tỷ đồng; trung bình mỗi năm, Nhà nước thu từ 4.300-4.500 tỷ đồng từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. “Dù số tiền trên là chưa nhiều so với trữ lượng tài nguyên khoáng sản mà chúng ta có thể khai thác được, song rõ ràng công tác quản lý của nước ta từ khi có Luật Khoáng sản 2010 đã tốt hơn nhiều so với giai đoạn trước,” ông Hoàng Văn Khoa nhấn mạnh.
Tuy vậy, ông Hoàng Văn Khoa cũng thẳng thắn cho rằng bên cạnh các mặt được, Luật Khoáng sản 2010 hiện nay cũng đang nảy sinh những nội dung bất cập, không đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Đầu tiên là về mặt quản lý, hiện khoáng sản vẫn chưa được quản lý chặt chẽ ở tất cả các khâu. Điển hình như việc thăm dò, đánh giá ở đâu có mỏ, trữ lượng khoáng sản ở dưới lòng đất còn bao nhiêu, trên thực tế vẫn chưa làm tốt. “Tuy tiền cấp quyền khai thác chúng ta thu được là không nhỏ, nhưng nếu chúng ta thăm dò, đánh giá bài bản hơn, biết được chính xác trữ lượng khoáng sản còn bao nhiêu, thì chúng ta còn có thể thu được gấp 2, gấp 3 lần số tiền hiện nay,” ông Hoàng Văn Khoa nói. Về hoạt động khai thác, theo ông Hoàng Văn Khoa, hiện nay cũng đang “có vấn đề.” Trong đó, việc không đảm bảo công nghệ để khai thác đã gây ra những hậu họa, ảnh hưởng đến tính mạng của người dân. Điển hình như khai thác mỏ vàng, khai thác cát. Đây là vấn đề vô cùng hệ lụy, nhất là đối với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, theo ông Hoàng Văn Khoa, hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản trên còn kéo theo khai thác lậu, buôn bán lậu. Vấn đề này cho thấy về mặt chính sách cũng chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ. Vì lẽ đó, việc sửa đổi Luật Khoáng sản 2010 là điều vô cùng cấp thiết để hướng tới “lấp đầy” những khoảng trống còn bất cập.
Cùng chung quan điểm, Tiến sỹ Lê Ái Thụ, Chủ tịch Hội Địa chất kinh tế Việt Nam cho rằng, hiện còn nhiều bất cập trong quản lý hoạt động khai thác khoáng sản. Với một số lượng mỏ khoáng sản chiếm phần lớn được cấp phép không qua đấu giá, các chuyên gia cho rằng muốn khống chế và triệt tiêu tận gốc cơ chế xin cho tồn tại trong lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng sản, trước hết cần phải ưu tiên hoàn thiện hành lang pháp lý. Bên cạnh những tồn tại về hoạt động đấu giá quyền khai thác khoáng sản, công tác quản lý những mỏ đã được cấp phép cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải khắc phục. Bởi hiện nay, tình trạng khai thác vượt quá ranh giới, quá trữ lượng cho phép diễn ra khá phức tạp ở nhiều địa phương.
Việc quản lý trữ lượng, khối lượng khai thác khoáng sản hiện nay chỉ mới dừng lại ở việc dựa trên kê khai của doanh nghiệp được cấp phép, nhà nước chưa có biện pháp quản lý tốt khâu xác định trữ lượng, khối lượng khai thác được. Thêm vào đó, Luật Khoáng sản cũng chưa quy định rõ ràng về định giá khoáng sản, định giá mỏ, chưa có công cụ tài chính phù hợp để quản lý giá trị khoáng sản nói chung và quản lý đấu giá khoáng sản nói riêng. Trong 8 mỏ khoáng sản được Bộ TN&MT đã đấu giá, có những mỏ giá trúng cao hơn gấp 2 lần so với giá khởi điểm. Với tổng số tiền cấp mỏ xác định được trong 10 năm là 55.000 tỷ đồng, chỉ cần giá trúng cao hơn giá khởi điểm 20%, ngân sách có thêm hơn 10.000 tỷ đồng. Còn nếu mức tăng gần 80% như các mỏ đã đấu giá, thì ngân sách sẽ thu thêm được 40.000 tỷ đồng.
Có thể nói, khai thác tài nguyên là một trong những lĩnh vực dễ nảy sinh tham nhũng, tiêu cực, nhất là trong việc cấp phép khai thác,… Từ khi phân cấp quản lý về cho các địa phương và cho phép các chủ thể được quyền quyết định các khu vực không đưa ra đấu giá khai thác khoáng sản, việc cấp phép khai thác ở một số nơi diễn ra tràn lan và tùy tiện khiến dư luận không thể không đặt ra những nghi vấn về sự câu kết giữa các “nhóm lợi ích” trong thực thi chính sách khai thác tài nguyên.
Công khai minh bạch các thông tin liên quan đến hoạt động khai thác khoáng sản là chìa khóa để các doanh nghiệp có đủ năng lực, kinh nghiệm, có điều kiện tham gia một cách bình đẳng vào quá trình khai thác, sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách, hạn chế đáng kể “nhóm lợi ích” trục lợi.
Tiến sỹ Lê Ái Thụ cho biết thêm, thông thường, khoáng sản không ‘đi’ một mình. Ví dụ như chì, kẽm, không đơn thuần chỉ là 2 loại khoáng sản này, mà nó còn kèm theo các loại khoáng sản khác và nhiều khi hàm lượng của các loại khoáng sản đi kèm ít (như vàng) nhưng giá trị còn cao hơn. Vì thế, khi việc cấp quyền khai thác không bao quát được thì sẽ dẫn tới thất thoát tài nguyên khoáng sản.
Luật cần bắt kịp nhu cầu thực tiễn
Trước thực trạng trên, TS. Lê Ái Thụ cho rằng để nâng cao hiệu quả quản lý cũng như tránh bỏ soát những lỗ hổng gây thất thoát tài nguyên khoáng sản, việc sửa đổi Luật Khoáng sản 2010 thành Luật Địa chất và Khoáng sản tới đây cần phải quy định cụ thể, rõ ràng hơn về khâu quản lý, đặc biệt là việc thăm dò, đánh giá trữ lượng khoáng sản. Đơn cử như với một khu vực mỏ khoáng sản, khi cấp phép cần phải được đề cập cụ thể về việc xác định trữ lượng, loại trữ lượng tĩnh hay động (ví dụ cát sông, nay khai thác nhưng mai có thể cát từ nơi khác lại trôi tới). Vì thế, vấn đề này, luật cần phải quy định rõ ràng, để không gây thất thoát khoáng sản, TS. Lê Ái Thụ lưu ý.
Tiến sỹ Lê Ái Thụ cũng lưu ý, Luật Địa chất và Khoáng sản tới đây cần quy định rõ các nội dung về phân công, phân cấp và cải cách thủ tục hành chính. Đối với phân công quản lý thống nhất về quy hoạch khoáng sản, theo Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, “Tài nguyên địa chất, khoáng sản vừa là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa là nguồn dự trữ lâu dài của quốc gia cần phải được quy hoạch, điều tra, thăm dò đầy đủ; được quản lý tập trung, thống nhất; khai thác, sử dụng bền vững, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả”. Luật Địa chất và Khoáng sản cũng cần không những đảm bảo hoạt động khai thác khoáng sản, quản lý tốt, mà còn làm lợi cho dân sinh như 3 trụ cột về phát triển bền vững: Phát triển kinh tế, xã hội và môi trường được đảm bảo.
Góp thêm ý kiến, Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Xuân Nam, Ủy viên Hội đồng Giáo sư liên ngành khoa học Trái đất - Mỏ cho rằng, tài nguyên khoáng sản là tài sản công thuộc quyền sở hữu của toàn dân. Vì thế, trong dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản cần được thể hiện rõ nguyên tắc: Với bất kỳ mỏ khoáng sản ở địa phương nào thì người dân ở khu vực đó có quyền được biết thông tin cụ thể về mỏ; loại khoáng sản gì và sẽ được Nhà nước, chính quyền địa phương giao cho ai khai thác; lợi ích mà Nhà nước, doanh nghiệp cũng như cộng đồng dân cư được thừa hưởng thế nào?. Cụ thể hơn tức là người dân có quyền được biết, tham gia giám sát và được hưởng lợi trong suốt quá trình từ khâu cấp phép, khai thác đến lúc hoàn nguyên môi trường.
Ngoài ra, Giáo sư Bùi Xuân Nam cũng đề cập đến sức ép về sử dụng vật liệu xây dựng; nhất là những tác động tiêu cực từ hoạt động khai thác cát, sỏi (kể cả hợp pháp và trái phép) ở 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Thậm chí, theo ông Nguyên, hoạt động này còn gây ra những bất ổn xã hội, ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội và tính mạng của người dân, cộng đồng dân cư tại các khu vực liên quan. Do vậy, khi xây dựng dự án Luật Địa chất và Khoáng sản, cơ quan soạn thảo cần dự báo được những phương án có thể xảy ra để quản lý tốt hơn. Chúng tôi cũng hy vọng luật mới sẽ ‘bắt kịp’ được nhu cầu từ thực tiễn để có những sự điều chỉnh về quy định pháp luật để quản lý hiệu quả hơn, ông Bùi Xuân Nam nhấn mạnh.
THANH TÚ
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 8 năm 2024