
Những tác động tích cực
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành Khai khoáng Việt Nam luôn là nhiệm vụ mà Đảng và chính phủ quan tâm. Trong Quyết định 2427/QĐ-TTg đã nêu rõ:
Về chiến lược phát triển: Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trình độ cao bằng nhiều hình thức”, xây dựng cơ chế ưu đãi nghề nghiệp phù hợp với đặc thù nghề nghiệp, bảo đảm ổn định phát triển nguồn nhân lực cho điều tra, thăm dò, chế biến khoáng sản.
Về quan điểm chỉ đạo: Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo, thuộc tài sản quan trọng của quốc gia phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước, phát triển bền vững KT-XH trước mắt, lâu dài và bảo đảm QP-AN, BVMT. Điều tra, đánh giá khoáng sản phải đi trước một bước, làm rõ tiềm năng tài nguyên khoáng sản để lập quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng khoáng sản và dự trữ quốc gia. Thăm dò, KTKS phải gắn với chế biến, sử dụng phù hợp với tiềm năng của từng loại khoáng sản và nhu cầu của các ngành kinh tế. Chế biến khoáng sản phải sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao; chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong nước; chỉ xuất khẩu sản phẩm sau chế biến có giá trị kinh tế cao đối với khoáng sản quy mô lớn.
Về điều kiện hành nghề, Luật Khoáng sản số 60 năm 2010 và Nghị định 158/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ đã quy định trong các doanh nghiệp có HĐKS, dịch vụ khoáng sản phải có cán bộ đủ năng lực đảm nhận các vị trí Chủ nhiệm Đề án Địa chất, Giám đốc Điều hành mỏ khoáng sản. Có thể thấy rằng, yêu cầu bắt buộc về chức danh và điều kiện hành nghề của cán bộ trong ngành Khai khoáng cũng chính là một động lực để cán bộ phấn đấu.
Đến nay, kết quả điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản đã phát hiện được hơn 60 loại khoáng sản với trên 5000 mỏ, điểm mỏ, có quy mô từ nhỏ đến rất lớn, nhiều mỏ đã đi vào khai thác. Riêng khoáng sản biển vần là tiềm năng chờ đợi nguồn lực tổng hợp để tiếp tục thăm dò, khai thác phục vụ kinh tế đất nước. Trình tự phát triển dự án khoáng sản đều đã được thể hiện trong các văn bản, chính sách pháp luật về khoáng sản. Nhân lực trong dự án khoáng sản không chỉ ở khâu khai thác mà còn nhiều giai đoạn, nội dung đầu tư khác nhau. Bức tranh về ngành Khai khoáng của Việt Nam trong tương lai là khả quan, phát triển theo hướng bền vững, dài hạn, cần nguồn nhân lực dồi dào, trình độ cao.
Khai thác khoáng sản luôn chứa đựng các rủi ro về thăm dò, biến động thị trường, do vậy khi tính toán khả thi, các nhà đầu tư phải tổng hợp các khả năng có thể xảy ra tới chu kỳ 10 năm tiếp theo. Điều đáng lo ngại nhất với bất kể dự án đầu tư nào, ở quốc gia nào đó là sự thay đổi chính sách quá đột ngột và liên tục, xu thế tăng mà không tính đếm đến tính chất đặc thù tài nguyên, hoàn cảnh cạnh tranh. Tính đến thời điểm này, một dự án khoáng sản phải có nghĩa vụ nộp với ít nhất 17 loại thuế phí.
Đối với các doanh nghiệp đầu tư các khoáng sản khác cũng trong bối cảnh chung về gánh nặng thuế phí, sự khó khăn về tài chính dẫn tới việc không tận thu triệt để khoáng sản, chấp nhận khai thác phần tài nguyên có giá trị cao nhất để có nguồn thu, bỏ qua nghiên cứu công nghệ vì cần sự dài hạn và đầu tư tài chính lớn từ giai đoạn đầu, không đủ giải pháp xử lý môi trường, ứng xử hỗ trợ cộng đồng hạn hẹp, sự ảm đạm trong toàn hệ thống khai thác dẫn đến cách nhìn nhận của xã hội không thiện cảm, bỏ qua những đóng góp của khai khoáng trong phát triển kinh tế đất nước, chỉ còn sự quan ngại về môi trường, thua lỗ.
Khai thác khoáng sản tại Điện Biên - st
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực
Đứng trước thực trạng nguồn nhân lực rất cần được bổ sung, sự hờ hững theo học của học sinh trong lựa chọn ngành liên quan đến khai khoáng, các trường đào tạo cần có những giải pháp bước đầu hỗ trợ phát triển nguồn lực ngành Khai khoáng. Trước hết cần có giải pháp về mặt chính sách. Các chính sách phải căn cứ vào chiến lược phát triển của nhà nước, phải lấy cơ quan đầu mối là Bộ TN&MT để các văn bản ban hành khi áp dụng là đồng bộ và thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp đầu tư, xong cũng quản lý chặt chẽ các hoạt động khai thác tài nguyên. Không lấy mục tiêu thu nộp ngân sách khi chưa có phân tích bảo đảm sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Cũng từ các nguồn thu có được từ khoáng sản, Nhà nước cần có các chương trình đào tạo cán bộ trong các cơ quan đơn vị có HĐKS để kịp thời vận dụng văn bản pháp luật mới ban hành, cập nhật các giải pháp và tiến bộ khoa học về chế biến khoáng sản, BVMT, giám sát hoạt động. Ưu tiên cho cán bộ công tác tại các địa bàn xa xôi, vùng khó khăn, khuyến khích cán bộ làm việc để thu hút nhân lực chất lượng cao và thu hút tuyển sinh.
Đối với công tác liên kết đào tạo, trong đào tạo theo định chế tín chỉ, các trường có khung và chương trình đào tạo trong đó có học phần trùng nhau hoặc tương đương cần có sự phối hợp để thỏa thuận sao cho gửi sinh viên về một đầu mối, vừa tạo sự tập trung, vừa tận dụng tối đa năng lực giảng viên, cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, đạo cụ, thực hành giúp sinh viên học tập đạt chất lượng cao, hứng khởi, yêu nghề. Trách việc mỗi trường đào tạo một vài sinh viên cùng một học phần. Trong hệ thống các trường kỹ thuật, cần liên kết về hệ thống phòng thí nghiệm, đưa các phòng thí nghiệm vào chuỗi liên kết, phát huy tối đa khả năng phân tích, nâng cao độ tin cậy và giới hạn phát hiện. Không lấy số lượng đầu thiết bị làm chỉ số cho năng lực mà lấy chất lượng, uy tín, giải pháp luận giải kết quả làm thước đo, như vậy sẽ tiết kiệm được kinh phí đầu tư, toàn hệ thống liên kết sẽ đủ năng lực phân tích đáp ứng các dự án quy mô quốc gia và quốc tế. Theo đó sinh viên được tham gia thực hành. Các trường tiến dần đến hình thức tự chủ, cần tìm kiếm các tổ chức sử dụng nhân lực số lượng lớn của các quốc gia khác, nhận đào tạo theo đặt hàng, có địa chỉ tiếp nhận, sẽ chủ động được về chương trình, kinh phí, mang lại công việc và tạo sự lạc quan tin tưởng cho người học.
Hoạt động khoáng sản diễn ra khắp các tỉnh, thành, do vậy có thể lựa chọn các cơ sở sản xuất để phối hợp giảng dạy kết hợp lý thuyết và thực hành cao. Nhà trường cùng nhà đầu tư đồng tham gia đào tạo, như vậy sẽ hạn chế được tình trạng doanh nghiệp tiếp nhận nguồn lực xa lạ với yêu cầu sản xuất, ngược lại, nhà trường cũng có được định lượng đầu ra để trong quá trình đào tạo, sinh viên đã bắt tay vào việc, tạo lợi ích cho doanh nghiệp và cho chính người học. Trong các giấy phép về HĐKS, cần bổ sung thêm nội dung về phối hợp đón nhận sinh viên thực tập, phối hợp đào tạo, nguồn kinh phí tham gia nên được trích từ ngân sách thu từ HĐKS và sẽ được giảm trừ trong khoản trích nộp của doanh nghiệp, nhà đầu tư. Thực hiện như vậy, doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm trong đón giúp đỡ sinh viên thực tập, sàng lọc để tiếp nhận sau này.
NGUYỄN THỊ THỤC ANH, ĐỖ MẠNH TUẤN
Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội