Tài nguyên than phần đất liền bể Sông Hồng - Vùng chứa nhiều khoáng sản quan trọng

Thứ sáu, 11/3/2022, 09:19 (GMT+7)
logo Phần đất liền bể sông Hồng có diện tích khoảng 2.765 km, thuộc địa bàn các tỉnh, thành phố: Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội. Đây là vùng có chứa nhiều khoáng sản quan trọng và cần thiết để phát triển kinh tế, trong số đó đáng kể nhất là than nâu. Các công trình nghiên cứu về đặc điểm địa chất, tìm kiếm, thăm dò than phần đất liền bể sông Hồng đã được tiến hành từ rất sớm, trước năm 1954 đến nay.

Tài nguyên than phần đất liền bể Sông Hồng - Vùng chứa nhiều khoáng sản quan trọng

Tài nguyên khoáng sản than nâu bể sông Hồng

Đánh giá tài nguyên khoáng sản than

Đề án “Điều tra, đánh giá tổng thể tài nguyên than phần đất liền bể sông Hồng” do Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam thực hiện từ năm 2012 - 2020. Đề án đã tiến hành điều tra, đánh giá tổng thể tài nguyên than phần đất liền bể sông Hồng trên diện tích 2.765 km (được gọi là vùng điều tra), trong đó đánh giá tài nguyên than cấp 333 trên diện tích 265 km ở Đông Hưng - Kiến Xương - Tiền Hải, tỉnh Thái - Bình và Giao Thủy, tỉnh Nam Định (được gọi là vùng đánh giá).

Kết quả nghiên cứu của đề án sông Hồng đã xác định được 5 tập vỉa than (TV) phân bổ trong 5 tập của hệ tầng Tiên Hưng. Cơ sở để phân chia các tập vỉa là tính phân nhịp theo các chu kì thành tạo, mỗi chu kì thường bắt đầu bằng một tập hợp các trầm tích hạt mịn hơn như sét, bột kết có chứa các lớp, vỉa than, kết thúc chu kì là tập hợp các trầm tích hạt thô hơn như cát, sạn sỏi kết xen bột kết hạt lớn và sau đó quá trình được lặp lại. Theo cột địa tầng của các lỗ khoan, trong vùng đã xác nhận có 5 nhịp lớn tương ứng với 5 chu kì thành tạo và theo đó có 5 tập địa tầng và 5 tập vỉa than.

Trong mỗi tập vỉa than thường có mật độ chứa than cao, các vỉa và lớp than phân bố gần nhau hơn và tập hợp đá chứa than này phân bố khá ổn định trong toàn vùng. Trong mỗi tập vỉa thường có 2 đến 3 vỉa than bề dày trung bình - lớn phân bố khá ổn định trên diện rộng, được chọn làm vỉa chuẩn để đồng tên, nối các vỉa và tập vỉa.

Các ranh giới phân tập và các tập địa chấn: Mỗi tập địa chấn được liên hệ với các tập đất đá khác nhau, đánh giá sự giàu than hay nghèo than của các tập dựa trên tài liệu VSP, địa chấn phản xạ 2D và địa vật lý lỗ khoan. Các tập đất đá nghèo than có trường sóng địa chấn biên độ thấp, mờ nhạt hơn hẳn, thể hiện sự tồn tại của các trầm tích cát kết hạt vừa đến lớn. Ngược lại, các tập đá giàu than có trường sóng địa chấn tần số trung bình, biên độ lớn và tính liên tục cao, thể hiện sự tồn tại của các trầm tích hạt mịn hơn gồm: Cát kết hạt nhỏ và sét kết, bột kết có chứa các vỉa than.

Tính chất vật lí, đặc điểm thạch học than ở các tập vỉa nằm trên (TV4, TV5) thường có màu đen nâu, vết vạch nâu đen, ánh mờ đến ánh nhựa mờ, còn trong các tập va nằm phía dưới (TV3, TV2) than có màu đen hơn, ánh nhựa mạnh hơn, thành phần đồng nhất hơn. Than có vết vỡ chủ yếu ở dạng vỏ chai, đôi chỗ dạng bậc thang, không bằng phẳng, dạng vỏ sò; có độ gắn kết tốt so với đất đá ở vách và trụ; để ngoài không khí thì dễ mất nước, nứt nẻ. Than hầu hết là than cục, hầu như không có than cám, rất ít sét than và than bẩn. Trên cơ sở phân tích tổng hợp các đặc điểm về thạch học than, thành phần hóa học và tính chất vật lý của than cho thấy than ở phần đất liền bể Sông Hồng thuộc nhãn than lignit A đến bitum và mức độ biến chất tăng theo chiều sâu.

Như vậy, than ở phần đất liền bể sông Hồng thuộc nhãn than lignit A đến bitum; than có độ tro trung bình đến thấp, nhiệt lượng tương đối cao, hàm lượng lưu huỳnh thấp, chất bốc cao; nhiệt độ nóng chảy của tro than cao, nên chúng rất thích hợp sử dụng làm than năng lượng. Theo các tiêu chí chọn vùng khai thác than bằng công nghệ khi hóa than ngầm (UCG) của Linc Energy (Úc), loại than này cũng đáp ứng các yêu cầu của công nghệ UCG.

Triển vọng có giá trị cao

Dựa vào đặc điểm cấu trúc địa chất, độ sâu phân bố và mức độ chứa than, kết quả nghiên cứu của đề án đã phân chia ra 3 cấu trúc chứa than chính cũng như mức độ triển vọng của chúng như sau: Trũng Đông Quan là cấu trúc nếp lõm, phần lớn hệ tầng Tiên Hưng chứa than nằm độ sâu dưới -1.200 m. Do vậy, các vỉa than trong cấu trúc này rất khó để khai thác. Nếp lõm Vũ Tiên là Địa tầng chứa than phân bố ở độ sâu từ - 250 đến -2.200 m, chứa nhiều các vỉa than có giá trị công nghiệp, song mức độ nghiên cứu còn rất thấp. Trong dải Khoái Châu - Tiền Hải, tập vỉa 1 (TV1): Phân bố không ổn định từ Khoái Châu đến Tiền Hải: Từ Tiền Hải ra phía biển chứa ít các vỉa than và tồn tại ở độ sâu > -1.900 m; từ Đông Hưng đến Tiền Hải chứa ít các vỉa than và tồn tại ở độ sâu > - 1.200 m (ngoài diện tích đánh giá 265 km từ Đông Hưng về Khoái Châu chứa nhiều và dày có giá trị công nghiệp và tồn tại ở độ sâu từ -150 m đến -800 m. Tập vỉa 2, 3 (TV2; TV3): Duy trì tương đối ổn định trên toàn vùng điều tra. Trong tập có 1 đến 2 vỉa duy trì ổn định trên toàn diện tích. Tập vỉa 4, 5 (TV4; TV5): Phân bố chủ yếu từ Tiền Hải, Giao Thủy ra phía biển. Từ các cơ sở trên cho thấy than trong dải Khoái Châu - Tiền Hải rất có triển vọng.

Đánh giá kết quả của đề án, TS. Phí Chí Thiện, Tổng Hội địa chất Việt Nam cho rằng, nhóm nghiên cứu đề án đã đồng danh được các tập vỉa than trong khu vực nghiên cứu. Than có chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu sử dụng là nguyên liệu tốt cho các nhà máy nhiệt điện. Kết quả tính được tổng tài nguyên than phần đất liền bể sông Hồng ở các cấp 333+334a+334b là 212.676.990 ngàn tấn. Trong đó, có tài nguyên cấp 333 tỉnh từ lộ vỉa đến độ sâu -1.200 m, ở khu Bình Minh, Khoái Châu và diện tích đánh giá mới 265 km (khu vực Đông Hưng - Tiền Hải, tỉnh Thái Bình và Giao Thủy, tỉnh Nam Định), là 5.649.218 ngàn tấn; tài nguyên cấp 334a tính từ lộ vỉa đến độ sâu -1.200 m, ở dải nâng Khoái Châu - Tiền Hải, là 24.396.726 ngàn tấn; so với tài nguyên dự báo trong báo cáo tổng hợp (1986) kết quả nghiên cứu của đề án sông Hồng về cơ bản là không thay đổi, nhưng tài nguyên cấp 333 và 334a đã tăng lên nhiều lần, độ tin cậy cậy của tài nguyên than nêu trong báo cáo này đáp ứng yêu cầu của các cấp tài nguyên theo các quy định kỹ thuật hiện hành. Bước đầu đã nghiên cứu làm rõ đặc điểm địa chất thủy văn và địa chất công trình nhất là trong tầng trầm tích chứa than hệ tầng Tiên Hưng.

ĐINH ĐỨC ANH

Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam