
Ảnh minh họa
Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, Ở trong nước, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, xu hướng chuyển đổi số, yêu cầu cho đầu tư phát triển để thực hiện chủ trương bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững sẽ tác động, tạo áp lực lớn đối với công tác bảo vệ môi trường, trong khi nguồn lực, ý thức, trách nhiệm về bảo vệ môi trường còn hạn chế. Đây sẽ là những thách thức đặt ra đối với công tác bảo vệ môi trường trong năm 2021 và những năm tiếp theo của giai đoạn 2021-2025.
Nhiều kết quả nổi bật giai đoạn 2016-2020
Thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, đột phá để đưa công tác BVMT trở thành trụ cột của quá trình phát triển bền vững: Trong giai đoạn 2016 - 2020, Tổng cục Môi trường đã xây dựng, tham mưu Bộ TN&MT trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 7 nghị định, 3 quyết định, 3 chỉ thị cùng nhiều kế hoạch, đề án quan trọng khác; trình Bộ TN&MT ban hành theo thẩm quyền 15 thông tư, 1 thông tư liên tịch hướng dẫn Luật BVMT năm 2014 và Luật Đa dạng sinh học (ĐDSH) năm 2008, cùng 12 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Đặc biệt, Tổng cục đã tập trung mọi nguồn lực, nỗ lực tối đa để thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng, Lãnh đạo Bộ TN&MT trong xây dựng trình Chính phủ, Quốc hội xem xét thông qua Luật BVMT năm 2020 (Luật số 72/2020/QH14). Lần đầu tiên, Luật thiết kế khung chính sách hướng đến việc hình thành hành lang pháp lý cơ bản về BVMT có tính tổng thể, toàn diện và hài hòa với hệ thống pháp luật về KT-XH. Mục tiêu xuyên suốt, trọng tâm của Luật BVMT năm 2020 là bảo đảm chất lượng môi trường sống để bảo vệ sức khỏe người dân, thay đổi phương thức quản lý theo hướng bám sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu hội nhập, cải cách thủ tục hành chính (TTHC) nhưng vẫn đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của các công cụ quản lý môi trường, tập trung vào nhóm đối tượng nguy cơ cao. Luật quy định đồng bộ các công cụ quản lý môi trường theo suốt vòng đời của dự án đầu tư phát triển, bắt đầu từ khâu quy hoạch, xem xét chủ trương, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện dự án cho đến khi vận hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và kết thúc hoạt động,...
Đổi mới tư duy quản lý, chuyển trọng tâm từ bị động ứng phó sang chủ động kiểm soát, giám sát các vấn đề môi trường: Bước vào giai đoạn 2016 - 2020, Đảng, Nhà nước đã quán triệt thực hiện chủ trương phát triển kinh tế không ảnh hưởng đến môi trường, phát triển kinh tế dựa trên việc quản lý chặt chẽ tài nguyên và chủ động ứng phó với BĐKH. Đối với công tác quản lý, BVMT từ chỗ còn bị động, lúng túng trong xử lý, giải quyết các vụ việc, sự cố về ô nhiễm môi trường (ONMT), đến nay chúng ta đã thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các vấn đề môi trường, chủ động phối hợp với các địa phương, tổ chức liên quan trong việc xử lý các vụ việc gây ONMT, điểm nóng về môi trường. Theo đó, đã thành lập và duy trì 12 tổ giám sát đối với các dự án, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường cao để đảm bảo các dự án này hoạt động an toàn về môi trường, có đóng góp cho tăng trưởng; phối hợp, thúc đẩy đầu tư lắp đặt 867 trạm quan trắc nguồn thải có kết nối số liệu trực tiếp về Sở TN&MT và Bộ TN&MT để theo dõi, giám sát; thành lập và duy trì hiệu quả đường dây nóng về môi trường xuyên suốt từ trung ương đến các địa phương để nắm bắt, giải quyết các vấn đề ONMT phát sinh ngay từ cơ sở. Đồng thời, tăng cường quản lý chất thải rắn; kiểm soát loài ngoại lai xâm hại và ONMT không khí. Kết quả là đã tập trung kiểm soát 20 - 30% các đối tượng có nguy cơ ô nhiễm cao qua đó kiểm soát được tới 80% vấn đề môi trường; giải quyết dứt điểm hơn 1.000 kiến nghị, phản ánh nhận được qua đường dây nóng (chiếm khoảng 66%); đảm bảo xử lý đúng thời hạn gần 90% kiến nghị của doanh nghiệp, địa phương. Nhờ đó, chỉ số hài lòng của người dân đối với công tác QLNN về BVMT tăng dần qua từng năm.
Công tác quản lý chất thải, cải thiện chất lượng môi trường, bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH đạt được những kết quả tích cực: Nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn tập trung được đưa vào vận hành tại các địa phương, một số thành phố lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đã đầu tư và xây dựng các khu liên hợp xử lý chất thải rắn có quy mô lớn. Trong 5 năm qua, tỷ lệ nước thải sinh hoạt được thu gom, xử lý, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom, tái chế liên tục tăng; tỷ lệ phải chôn lấp giảm; chất thải nguy hại được kiểm soát, quản lý tốt hơn thông qua việc kiểm soát chặt chẽ nguồn phát, thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt được thu gom, xử lý đã đạt 13% (tăng khoảng 6% so với năm 2016); tỷ lệ chất thải rắn được thu gom xử lý tại khu vực nội thành của các đô thị trung bình đạt khoảng 92% (tăng 7% so với năm 2016), tại khu vực ngoại thành của các đô thị trung bình đạt khoảng 66% (tăng 15% so với năm 2016); tỷ lệ chất thải nguy hại được xử lý đạt 85% (tăng khoảng 6% so với năm 2017); hoàn thành xử lý triệt để 340/435 cơ sở gây ONMT nghiêm trọng (tăng 30,2% so với năm 2016); số xã đạt tiêu chí chuẩn nông thôn mới về môi trường tăng 8,3%. Số lượng các khu bảo tồn, khu Ramsar tiếp tục gia tăng. Hiện nay, cả nước có 172 khu bảo tồn, gồm 33 vườn quốc gia, 65 khu dự trữ thiên nhiên, 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, 56 khu bảo vệ cảnh quan (tăng 6 khu bảo tồn so với năm 2016); 9 khu Ramsar (tăng 2 khu so với năm 2016); 10 Vườn Di sản ASEAN (tăng 4 Vườn Di sản ASEAN so với năm 2016).
Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử trong quản lý, BVMT: Với các hoạt động đa dạng, cấp thiết, trong khi điều kiện về nhân lực hạn chế, Tổng cục Môi trường đã hết sức coi trọng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo điều hành, phục vụ nhiệm vụ QLNN. Theo đó, đã thực hiện trên 50% dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 trong giải quyết TTHC về môi trường; triển khai thực hiện xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về môi trường.
Tuy vậy, đến nay công tác quản lý, BVMT ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế; môi trường đã và đang chịu áp lực lớn do sự gia tăng nhanh về số lượng, quy mô và mức độ tác động của các nguồn ONMT từ hoạt động của các khu công nghiệp, đô thị, làng nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Nhiều vấn đề môi trường còn tồn đọng, chưa được giải quyết, nhất là những vấn đề môi trường gắn với số đông dân cư như ô nhiễm không khí tại các đô thị, thành phố lớn; rác thải sinh hoạt, đặc biệt là rác thải sinh hoạt tại nông thôn; nước thải sinh hoạt đô thị, làng nghề, cụm công nghiệp. Các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tình trạng cháy rừng, chặt phá rừng gia tăng; các loài động thực vật hoang dã tiếp tục suy giảm; vẫn còn các nguy cơ từ sinh vật ngoại lai xâm hại và rủi ro từ sinh vật biến đổi gen.
Tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2021-2015
Năm 2021, kế thừa những kết quả quan trọng đã đạt được, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, tạo nền tảng vững chắc cho công tác quản lý, BVMT giai đoạn 2021-2025, hướng tới phát triển bền vững, Tổng cục Môi trường tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Một là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về BVMT, quy hoạch, quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường đáp ứng yêu cầu của thực tiễn với ba nội dung chính:
Tập trung xây dựng và trình ban hành đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật BVMT năm 2020 để bảo đảm triển khai thực hiện Luật kể từ ngày 1/1/2022; Thông tư quy định kỹ thuật quan trắc môi trường; Chiến lược quốc gia về ĐDSH giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050; triển khai xây dựng quy hoạch BVMT quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; quy hoạch bảo tồn ĐDSH quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; quy hoạch tổng thể quan trắc môi trường quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050,… Triển khai xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia về môi trường theo quy định của Luật BVMT năm 2020; xây dựng các quy trình kỹ thuật, định mức đơn giá phục vụ công tác QLNN về BVMT.
Hai là, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương giải quyết các vấn đề ONMT gắn với số đông dân cư. Trọng tâm là: Triển khai thực hiện Chỉ thị số 41/2020/CT-TTg về giải pháp cấp bách tăng cường quản lý chất thải rắn, Chỉ thị số 03/2021/CT-TTg về tăng cường kiểm soát ONMT không khí; tăng cường biện pháp giám sát, kiểm soát nguồn thải ra các lưu vực sông bị ô nhiễm, ô nhiễm nguồn nước mặt trong các khu đô thị, khu dân cư, vùng kinh tế trọng điểm; đẩy nhanh tiến độ di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ONMT hoặc không phù hợp với quy hoạch ra khỏi khu vực đô thị và khu dân cư. Kiện toàn và vận hành hiệu quả đường dây nóng về ONMT. Chủ động rà soát, nắm bắt, xử lý kịp thời các thông tin phản ánh, kiến nghị về ONMT trên các cơ quan truyền thông, báo chí.
Ba là, chủ động phòng ngừa, giám sát, kiểm soát các dự án, nguồn thải có nguy cơ gây ONMT cao. Xây dựng quy định tiêu chí môi trường để lựa chọn, quyết định đầu tư phát triển; phân loại các dự án từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, chủ động phòng ngừa, kiểm soát nhóm các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm cao; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường; tiếp tục chủ động thực hiện các hoạt động giám sát về môi trường đối với các cơ sở, dự án lớn, có nguy cơ gây ONMT cao thông qua việc tiếp tục duy trì, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động, cơ chế giám sát môi trường để bảo đảm các dự án, cơ sở này vận hành an toàn về môi trường; kiểm soát chặt chẽ về môi trường đối với các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề; tổ chức đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra công tác xử lý triệt để ô nhiễm tại 47 làng nghề ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng; tăng cường phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để ứng phó, xử lý kịp thời, hiệu quả đối với các vụ việc, sự cố liên quan đến môi trường phát sinh.
Bốn là, nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH. Thúc đẩy các hoạt động bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng; mở rộng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên, di sản thiên nhiên; tăng cường kiểm soát tác động tiêu cực của các dự án, hoạt động kinh tế tới thiên nhiên, ĐDSH; rà soát, đánh giá, đề xuất kế hoạch sửa đổi Luật ĐDSH; xây dựng chương trình tổng thể về bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
Năm là, tập trung thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BVMT đối với 17 loại hình sản xuất công nghiệp có nguy cơ gây ONMT; các cơ sở xử lý chất thải nguy hại; các cơ sở có nguồn khí thải lưu lượng lớn; các cơ sở, dự án gây ảnh hưởng lớn tới di sản thiên nhiên, ĐDSH theo quy định của pháp luật.
Sáu là, tăng cường năng lực quan trắc, cảnh báo chất lượng môi trường. Tập trung thực hiện tốt chương trình quan trắc môi trường định kỳ, nhất là quan trắc môi trường không khí đô thị để cung cấp thông tin về chất lượng môi trường không khí tới người dân, tổ chức một cách chính xác, kịp thời; tăng cường năng lực hệ thống quan trắc môi trường, năng lực quan trắc môi trường tại các trung tâm vùng; nâng cao hiệu quả quản lý, chất lượng tác nghiệp hoạt động quan trắc môi trường.
Bảy là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số đối với lĩnh vực môi trường. Triển khai có hiệu quả việc thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 đối với 100% TTHC về môi trường; tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đối với nhóm dịch vụ liên quan đến thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường và cấp giấy phép môi trường; kết nối, chia sẻ dữ liệu số trên Hệ thống thông tin báo cáo Chính phủ; tăng cường sử dụng phương thức làm việc trực truyến (online) trong chỉ đạo, điều hành, thực hiện nhiệm vụ.
Tám là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về BVMT, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng trong công tác BVMT. Tập trung tuyên truyền, giới thiệu các quy định của Luật BVMT năm 2020, thực hiện các mô hình truyền thông mạnh mẽ để tạo sự thống nhất trong toàn xã hội về nhận thức và hành động về BVMT. Phát hiện, nhân rộng các mô hình hay, cách làm tốt; kịp thời khen thưởng, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích, sáng kiến trong BVMT. Phát huy hiệu quả vai trò, sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng dân cư, người dân về BVMT, từ hoạch định chính sách, thực hiện, giám sát thực thi chính sách pháp luật, đến huy động nguồn lực đầu tư cho BVMT.
TS. NGUYỄN VĂN TÀI
Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường