news

Tạo dựng nền tảng thể chế phát triển ngành Tài nguyên và Môi trường

Thứ bảy, 22/11/2025, 12:35 (GMT+7)
logo Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập vào ngày 05 tháng 8 năm 2002. Có rất nhiều công việc phải bắt tay ngay từ đầu. Nhưng việc cấp bách và cũng là trọng tâm xuyên suốt nhiệm kỳ đầu tiên của Bộ là xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuộc các lĩnh vực do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và tạo thuận lợi cho công tác quản lý các lĩnh vực này.
mai-ai-truc_1763629918.webp
    Nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Mai Ái Trực

Thời kỳ đầu, Bộ được giao quản lý các lĩnh vực đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ. Các nhiệm kỳ sau được giao thêm nhiệm vụ quản lý biến đổi khí hậu, biển và hải đảo. Lĩnh vực nào cũng cần xây dựng hoặc hoàn thiện khung pháp lý nhưng đất đai là lĩnh vực nóng nhất. Đến bây giờ, sau hơn 20 năm, lĩnh vực đất đai vẫn nhận được sự quan tâm đặc biệt. Vì vậy, Bộ luôn dồn sức cho lĩnh vực này. 

Chỉ trong vòng hơn 9 tháng kể từ ngày có quyết định thành lập Ban soạn thảo, Luật Đất đai (sửa đổi) đã thể chế hóa đúng đắn và đầy đủ Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba (khoá IX) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và đã được Quốc hội thông qua.

Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành Luật Đất đai mà nhiều người vẫn gọi vui là “siêu nghị định” do dung lượng quá lớn, đã tạo ra tiếng vang lúc bấy giờ. So với Luật Đất đai năm 1993 trước đó, Luật Đất đai năm 2003 có nhiều nội dung đổi mới, trong đó có ba điểm nổi bật sau đây:

Một là, đã làm rõ hơn quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý đất đai; đồng thời quy định cụ thể hơn các quyền của người sử dụng đất, trong đó có việc xử lý nhiều vướng mắc về công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho rất nhiều trường hợp mà trong thời gian dài trước đó đã không được cấp Giấy chứng nhận.

Hai là, Luật đã tiếp cận nền kinh tế thị trường, lần đầu tiên quy định giá đất do Nhà nước quy định phải “Sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường; khi có chênh lệch lớn so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường thì phải điều chỉnh cho phù hợp” (Điều 56 của Luật). Điều kiện bình thường ở đây là loại bỏ các yếu tố đầu cơ nâng giá, thổi giá lên cao. Đáng tiếc là sau hơn 20 năm, quy định này chưa được thể hiện trong thực tế. 

Gần đây, Luật Đất đai năm 2024 đã bỏ quy định về khung giá đất do Chính phủ ban hành đồng thời quy định cụ thể, sát hợp các phương pháp xác định giá đất, mang tới cơ hội đưa giá đất do Nhà nước quy định về sát với giá thị trường, tạo thuận lợi cho quản lý đất đai và ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực trong xác định giá đất.

Ba là, đẩy mạnh phân cấp quản lý đất đai. Trừ vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia, đất sử dụng cho mục đích QP - AN, các vấn đề còn lại đều thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương. Thủ tục quản lý đất đai cũng được rút gọn so với trước.

Bên cạnh lĩnh vực đất đai, các lĩnh vực khác như: Tài nguyên nước, khoáng sản, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ cũng có các quy định dưới hình thức Luật do Quốc hội thông qua hoặc Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan và các địa phương nhằm tăng cường quản lý, bảo vệ và khai thác bền vững tài nguyên thiên nhiên.

Để có căn cứ sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, Bộ đã cùng Ban Kinh tế Trung ương trình Bộ Chính trị (khoá IX) ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết xác định quan điểm coi môi trường “là một yếu tố không thể thiếu trong phát triển KT - XH bền vững, đặt bảo vệ môi trường ngang với các mục tiêu phát triển khác” và “lấy con người làm trung tâm, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường”. Về nhiệm vụ và giải pháp, Bộ Chính trị yêu cầu: “Đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho môi trường. Riêng NSNN cần có mục chi riêng cho hoạt động sự nghiệp môi trường và tăng chi để bảo đảm đến năm 2006 đạt mức chi không dưới 1% tổng chi NSNN và tăng dần tỷ lệ này theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế”. Trong cuộc họp của Bộ Chính trị thảo luận, thông qua Nghị quyết này, một số ý kiến phân vân về việc ghi tỷ lệ phần trăm đó trong Nghị quyết, nhưng sau khi nghe trình bày của Bộ Tài nguyên và Môi trường về sự cần thiết dành ngân sách ổn định cho sự nghiệp môi trường, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã kết luận: Cần giữ quy định này, coi đó là “điểm nhấn” của Nghị quyết. Cho đến nay, quy định này vẫn đang được thực hiện, góp phần quan trọng cho công tác bảo vệ môi trường. 

Những nhiệm kỳ sau này, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuộc các lĩnh vực do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý tiếp tục được tăng cường và có nhiều đổi mới quan trọng nhưng những vấn đề cốt lõi nêu trên về đất đai và môi trường không thay đổi mà chỉ làm rõ hơn, mang tính khả thi hơn.
Hiện nay, nông nghiệp và môi trường đã được quản lý chung, nhiều lĩnh vực trước đây do hai Bộ quản lý có sự liên kết chặt chẽ. Việc lồng ghép và kết hợp các chính sách cũng như xây dựng pháp luật theo hướng tích hợp là yêu cầu cần được đặt ra.

MAI ÁI TRỰC 
Nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường