
Tài nguyên nước dồi dào
Là người được Ban Lãnh đạo Sở giao “gác gôn” về lĩnh vực tài nguyên nước, bắt đầu câu chuyện với chúng tôi, ông Lê Hùng Cường, Trưởng phòng Tài nguyên nước (Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa) cho biết, Thanh Hoá là tỉnh có đặc điểm tài nguyên nước ngầm phong phú đa dạng và phức tạp nhất. Nguồn nước ngầm từ lâu đã là nguồn cung cấp chính cho ăn uống sinh hoạt và các hoạt động sản xuất, tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Hiện nay, nước dưới đất đóng vai trò rất quan trọng đảm bảo an ninh an toàn nguồn nước cho phát triển, trong khi khi tốc độ phát triển có nhu cầu sử dụng nước tăng cao, nguồn nước mặt bị ô nhiễm và phụ thuộc bên ngoài.
Cụ thể, theo tư liệu của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa, nguồn nước ngầm ở địa phương này với 4 tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích Đệ tứ gồm: Tầng chứa nước trong trầm tích Đệ tứ không phân chia (q) dọc theo các thung lũng khe suối chỉ có ý nghĩa cung cấp nước cho ăn uống sinh hoạt hộ gia đình; tầng chứa nước Holocen trên (qh2) với diện tích lộ 2208 km2, dọc ven biển Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Sầm Sơn, Quảng Xương; tầng chứa nước Holocen dưới (qh1) không lộ trên mặt, phân bố các huyện phía Đông tỉnh Thanh Hóa; tầng chứa nước Pleistocen (qp) phân bố thành từng khoảnh, từng dải ở vùng Vĩnh Lộc, Hà Trung, Yên Định, Thọ Xuân kéo xuống trung tâm đồng bằng, vùng Đông Sơn, Thanh Hoá, Hoằng Hoá và toả rộng ra tới biển. Ngoài ra, còn có 22 tầng chứa nước trong khe nứt- Karst phân bố toàn tỉnh, đặc biệt phía Tây Thanh Hoá. Tổng trữ lượng nước dưới đất tầng chứa nước chính Pleistocen 413.000 m3/ngày, phân bố không đồng đều. Đối với tầng chứa nước khe nứt- Karst chưa có nghiên cứu đánh giá đầy đủ. Do đó, tiềm năng khai thác nước ngầm là rất lớn.
Hồ Cửa Đạt là công trình đa mục tiêu lớn nhất Thanh Hóa
Bên cạnh đó, Thanh Hóa là tỉnh có mạng lưới sông khá dày, từ Bắc vào Nam có 5 hệ thống sông chính là sông Mã, sông Hoạt, sông Yên, sông Lạch Bạng, sông Chu với tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39.756 km2. Và nhiều hệ thống sông ngòi nhỏ khác như: Sông Nhà Lê, sông Bưởi, sông Cầu Chày...
Trong đó, hệ thống sông Mã là sông lớn nhất chảy qua địa bàn tỉnh có diện tích lưu vực là 28.400 km2. Lưu lượng dòng kiệt tháng 3 đạt trung bình 102m3/s, modul dòng chảy nhỏ nhất 2,01/s/km2. Chất lượng nước sông nhìn chung còn khá tốt, nước thải do chưa có hệ thống thu gom xử lý tập trung mà thải trực tiếp ra sông, tuy nhiên vẫn nằm trong khả năng điều tiết của sông. Kết quả khảo sát nhanh nước có độ pH khoảng 7,2-8 và lượng oxy hòa tan trong nước (DO) khoảng 5,5-6,5 ppm. Nước thải và rác thải xuất hiện nhiều hơn ở những đoạn sông gần trung tâm huyện, thị trấn và xã. Hệ sinh thái trên sông Mã rất đa dạng và có nhiều công trình di tích lịch sử ven sông. Theo đó, hiện có 77 đơn vị đăng ký khai thác nguồn nước mặt và 157 đơn vị đăng ký khai thác nguồn nước ngầm.
Nhưng cũng nhiều thách thức
Tiềm năng thế mạnh là vậy, nhưng theo đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa, cũng không ít thách thức với việc quản lý khai thác bền vững tài nguyên nước. Bởi, sự biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường cùng những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Sự suy giảm thảm thực vật, đặc biệt là rừng đầu nguồn làm gia tăng các loại hình thiên tai như lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán và xâm nhập mặn ngày càng gay gắt. Việc khai thác khối lượng lớn cát, sỏi lòng sông gây xói sâu lòng dẫn và sạt lở bờ sông, đe dọa an toàn các công trình cơ sở hạ tầng. Trong khi nguồn nước ngầm phân bố không đồng đều từ đồng bằng đến miền núi dẫn tới tình trạng xung đột và thiếu nước cục bộ chưa phân bổ đồng đều. Đặc biệt, một số huyện khu vực phía Đông tỉnh có nhu cầu nước cho phát triển kinh tế - xã hội ngày càng cao như: huyện Hậu Lộc, Hoằng Hoá và thị xã Nghi Sơn.
Đặc điểm nước ngầm
Cùng với đó là tình trạng ô nhiễm, suy giảm chất lượng nguồn nước do nước thải công nghiệp, làng nghề, nông nghiệp, nước sinh hoạt chưa qua xử lý vào các sông, suối; hệ thống công trình hạ tầng thủy lợi, phòng chống thiên tai đầu tư xây dựng đã lâu bị hư hỏng, xuống cấp hoặc quy mô công trình không đáp ứng với các điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay, dẫn đến không đảm bảo an toàn cho hoạt động khai thác, sử dụng nước.
Bên cạnh đó, công tác đầu tư, bố trí nguồn lực và kinh phí bố trí cho điều tra cơ bản tài nguyên nước, quy hoạch, xây dựng cơ sở dữ liệu, chuyển đổi số... còn thiếu và chưa đồng bộ. Về một số chính sách trong công tác quản lý tài nguyên nước như: Chưa ban hành được quy hoạch tài nguyên nước quốc gia; quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước; chưa xây dựng được quy hoạch tổng hợp của hầu hết các lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh phải xây dựng quy hoạch.
Chưa thực hiện kiểm kê tài nguyên nước quốc gia; công tác điền tra cơ bản, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước chưa đạt mục tiêu đề ra, chưa đáp ứng yêu cầu cho công tác quản lý tài nguyên nước. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước còn nhỏ lẻ, phân tán, chưa đồng bộ. Một số chính sách liên quan đến đảm bảo an ninh nguồn nước, đảm bảo nguồn nước ăn uống và sinh hoạt; liên quan đến đảm bảo cảnh quan và lưu thông dòng chảy của dòng sông, ao hồ còn thiếu và chưa cụ thể,...
Việc tăng cường năng lực tổ chức thực thi pháp luật tuy đã được quan tâm nhưng vẫn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; việc khai thác, sử dụng nước ở địa phương chưa có quy hoạch, kế hoạch hợp lý… Tài nguyên nước chưa được quan tâm đúng mức trong việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển của các ngành; mạng lưới trạm quan trắc, giám sát tài nguyên nước còn thiếu và chưa đồng bộ chưa đáp ứng yêu cầu đánh giá số lượng, chất lượng và dự báo diễn biến tài nguyên nước…
Hiện có 157 đơn vị đăng ký khai thác nguồn nước ngầm tại Thanh Hóa (ảnh minh họa)
Ở góc độ khác, nhận thức thức của doanh nghiệp, người dân về bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước vẫn còn hạn chế. Nhân lực, nguồn lực trong lĩnh vực tài nguyên nước ở các địa phương còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu. Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để huy động các nguồn lực của xã hội tham gia bảo vệ và phòng chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ liên ngành giữa cơ quan quản lý tài nguyên nước với các cơ quan liên quan, chưa làm rõ được đối tượng quản lý về nguồn nước và công trình thủy lợi giữa lĩnh vực tài nguyên nước và thủy lợi. Đồng thời, công tác kiểm tra việc thi hành pháp luật về tài nguyên nước chưa được thường xuyên. Chưa có tổ chức thanh tra chuyên ngành về tài nguyên nước, lực lượng cán bộ đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ, chuyên môn còn hạn chế nên công tác thanh tra, kiểm tra chưa được sâu sát và hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.
Ngoài ra, chưa có nhiều cơ chế, chính sách để thu hút các nguồn lực xã hội tham gia đầu tư vào hoạt động quản lý và khai thác tài nguyên nước. Mô hình quản lý các hệ thống thủy lợi vẫn còn bất cập trong phân vùng quản lý, hình thức quản lý; năng lực quản lý an toàn, bền vững tài nguyên nước ở một số đơn vị, địa phương còn hạn chế...
Và quyết tâm khai thác hiệu tài nguyên nước
Với vai trò là cơ quan chuyên môn tham mưu, giúp việc cho UBND tỉnh, thực hiện công tác quản lý tài nguyên và môi trường trên địa bàn tỉnh, bảy tháng vừa qua của năm 2023, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa đã chú trọng quản lý sử dụng tài nguyên nước, đem lại hiệu quả thiết thực. Kịp thời có các văn bản gửi UBND cấp huyện, xã trên địa bàn rà soát, đôn đốc các tổ chức, cá nhân có hoạt động khai thác, sử dụng nước thực hiện việc lập hồ sơ đề nghị cấp giấy phép theo quy định. Tham mưu cho UBND tỉnh tổ chức triển khai công tác thẩm định, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu, thuộc trường hợp phải cấp giấy phép theo quy định của pháp luật trên toàn tỉnh; rà soát, hoàn thành hồ sơ dự án lập danh mục và bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước ngầm trên địa bàn tỉnh, trình UBND tỉnh phê duyệt.
Hồ Cống Khê là một trong những hồ nước ngọt lớn ở Thanh Hóa
Thực hiện Quyết định số 953/QĐ-STNMT ngày 30/12/2022 của Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường về việc phê duyệt Kế hoạch thanh tra, kiểm tra; tiếp công dân; giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo và phòng, chống tham nhũng về tài nguyên và môi trường năm 2023. Theo đó, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tài nguyên nước năm 2023 cho 10 tổ chức, cá nhân được cấp có thẩm quyền cấp giấy phép tài nguyên nước; thời gian kiểm tra từ quý II đến quý IV năm 2023. Căn cứ quy định của Luật Tài nguyên nước và các văn bản pháp luật có liên quan, Sở Tài nguyên và Môi trường đã hướng dẫn cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, triển khai thực hiện theo đúng quy định.
Trả lời phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, ông Lê Hùng Cường cho biết, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác quản lý tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường đã xác định nhiệm vụ trọng tâm trong 6 tháng cuối năm. Cụ thể: Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước của Trung ương, của tỉnh trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh. Nâng cao chất lượng thẩm định hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước và chất lượng công tác tham mưu giải quyết các vấn đề phát sinh của cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên nước. Đồng thời, báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh kết quả thực hiện công tác đo triều - mặn trên hệ thống sông Mã, sông Yên và sông Lạch Bạng năm 2023 theo kế hoạch đã được phê duyệt. Tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ “Lập, ban hành Danh mục nguồn nước nội tỉnh trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” theo đề cương chi tiết được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt. Tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra tình hình chấp hành pháp luật về tài nguyên nước của các tổ chức, cá nhân có hoạt động khai thác, sử dụng nước năm 2023 trên địa bàn tỉnh.
Nhất Nam