
Là một trong những tổ chức quốc tế tại Việt Nam đã có nhiều tham vấn về chính sách, hỗ trợ đồng hành cùng với Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong đó có việc thiết lập cơ chế về quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR), ông Phạm Mạnh Hoài - Quản lý Đối tác và Chính sách, Chương trình Giảm nhựa, Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF- Việt Nam) chia sẻ với bạn đọc về lý do tại sao cần có EPR với sản phẩm bao bì, một số nước trên thế giới họ đã thực hiện như thế nào?. Để biết thêm thông tin, phóng viên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường xin giới thiệu lại nội dung cuộc trò chuyện sau đây:
Ông Phạm Mạnh Hoài
Phóng viên: Xin ông cho biết tại sao cần có cơ chế EPR với sản phẩm bao bì?
Ông Phạm Mạnh Hoài:
WWF hướng đến mục tiêu không rác thải nhựa trong thiên nhiên với tầm nhìn về mô hình kinh tế tuần hoàn cho ngành nhựa, và EPR là công cụ hữu hiệu để chuyển đổi mô hình kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn. EPR là cơ chế chuyển giao trách nhiệm và chi phí giải quyết các tác động của sản phẩm sau sử dụng (chất thải) sang các nhà sản xuất, nhập khẩu có liên quan. EPR sẽ tạo ra các tác động đáng kể trên 3 khía cạnh môi trường, xã hội và kinh tế.
Về mặt môi trường: Cơ chế EPR đặt ra mục tiêu về tỷ lệ thu hồi và tái chế riêng đối với chất thải bao bì cao hơn (nhựa, giấy, bìa cứng, thủy tinh, kim loại); thúc đẩy cải thiện từ khâu thiết kế bao bì để kéo dài vòng đời sản phẩm và giảm lượng nhựa tiêu dùng; thúc đẩy phân loại, thu hồi và tái chế. Điều này sẽ giúp hạn chế chất thải thất thoát ra sông, ngòi, đại dương; giảm thiểu ô nhiễm không khí do đốt chất thải bao bì ngoài trời; gia tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên thông qua việc tái chế, tái sử dụng để bảo tồn nguyên liệu thô và hệ sinh thái tự nhiên; giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 và hạn chế các tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) như hạn hán, lũ lụt và nước biển dâng.
Về mặt xã hội, đầu tiên cần nói đến EPR sẽ giúp giảm gánh nặng về tổ chức và tài chính cho các cấp chính quyền khi trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu được mở rộng tới khâu thu gom, xử lý chất thải từ sản phẩm thương mại của mình. Thúc đẩy EPR cũng chính là động lực và tăng cường sự tham gia của khu vực kinh tế phi chính thức (lao động tự do) trong hoạt động thu gom, tái chế bao bì bằng cách cải thiện điều kiện làm việc và đời sống của họ. Tăng cường tương tác giữa các bên cung cấp nguyên liệu, thiết kế và sản xuất bao bì, kinh doanh tiêu dùng, bán lẻ và xử lý chất thải.
Ở khía cạnh kinh tế, EPR là một hệ thống quản lý chất thải hiệu quả về mặt chi phí, tận dụng tối đa giá trị của vật liệu thông qua tái chế, tái xử dụng và xử lý hiệu quả. Cơ chế này có sự tham gia của các doanh nghiệp trong toàn bộ chuỗi giá trị bao bì, đòi hỏi doanh nghiệp phải cải thiện kinh doanh và thu hút đầu tư để phát triển hơn nữa lĩnh vực tái chế và xử lý chất thải; góp phần tạo ra việc làm và việc làm chất lượng cao; giảm phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu thô và nâng cao sức cạnh tranh của nguyên liệu thô thứ cấp. Ngoài ra, cơ chế EPR cũng giúp giảm thiểu ảnh hưởng các ngành kinh tế bị tác động tiêu cực từ chất thải bao bì như khai thác thủy hải sản, du lịch, dịch vụ, khi bao bì được phân loại, thu gom và xử lý đúng cách, có hệ thống.
Hình ảnh minh họa và thông điệp kêu gọi chuyển đổi
Có thể thấy, EPR giúp thúc đẩy chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn (KTTH) và mang lại những lợi ích trong bối cảnh khủng hoảng tài nguyên; hiện thực hóa mục tiêu sản xuất và tiêu dùng bền vững và lan tỏa tới các giá trị SDG trong bối cảnh của BĐKH, tạo ra khả năng thích ứng lâu dài, cơ hội kinh doanh mới và cho cả nền kinh tế, lợi ích môi trường và xã hội.
Phóng viên: Cơ chế EPR đối với bao bì vận hành như thế nào thưa ông?
Ông Phạm Mạnh Hoài:
Cơ chế EPR cho phép nhà sản xuất, nhập khẩu thực hiện trách nhiệm của mình hoặc bằng cách cung cấp các nguồn tài chính cần thiết và/hoặc tiếp cận một số khía cạnh vận hành trong quy trình quản lý chất thải rắn từ các đô thị. Bên cạnh đó, doanh nghiệp thu gom, phân loại và tái chế bao bì sẽ được cung cấp cơ sở tài chính đáng tin cậy để triển khai ở quy mô lớn, điều này rất quan trọng để tạo ra tiềm năng kinh tế dọc theo chuỗi giá trị.
Trong cơ chế EPR đối với bao bì sản phẩm, trách nhiệm của các doanh nghiệp liên quan không chỉ giới hạn ở khía cạnh đảm bảo sức khỏe và an toàn sau khi sản phẩm được bán ra mà còn cần đảm bảo bao bì sản phẩm được tái sử dụng hoặc tái chế, không làm ô nhiễm môi trường không khí, đất, sông ngòi và đại dương.
Ở một số quốc gia trên thế giới, EPR đối với bao bì sản phẩm được thực hiện chung thông qua Tổ chức Trách nhiệm của Nhà sản xuất (Producer Responsibility Organization - PRO). Các doanh nghiệp chịu điều tiết bởi cơ chế này sẽ nộp phí tài chính cho PRO quản lý. Tùy vào từng trường hợp cụ thể, PRO ký hợp đồng với chính quyền địa phương và/hoặc đơn vị xử lý chất thải để thu gom, phân loại, tái chế và vận chuyển chất thải bao bì. PRO chủ yếu là do khối tư nhân điều hành như một công cụ để đạt chỉ tiêu thu gom và tái chế đặt ra trong khung pháp lý và được cấp phép thành lập và giám soát hoạt động bởi cơ quan chức năng có thẩm quyền. EPR đối với bao bì sản phẩm gia tăng mối tương tác giữa các cơ quan chức năng và các tác nhân tham gia chuỗi giá trị bao bì sản phẩm - từ cơ sở thiết kế, sản xuất sản phẩm, kinh doanh hàng tiêu dùng đến cơ sở bán lẻ, người tiêu dùng và đơn vị xử lý chất thải. Điều này xuất phát từ “nguyên tắc gây ô nhiễm phải trả tiền”. Doanh nghiệp đưa bao bì sản phẩm ra thị trường có thể bị coi là “tác nhân gây ô nhiễm” nếu không tổ chức tốt việc thu gom, tái chế và xử lý chất thải bao bì mà doanh nghiệp tạo ra. Do vậy, doanh nghiệp nộp phí cho PRO để hoàn thành chỉ tiêu về thu gom và tái chế.
Ông Phan Tuấn Hùng - Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ TN&MT) chủ trì Hội thảo năm 2022
Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (Luật BVMT) đã đưa ra các quy định về trách nhiệm tái chế (Điều 54, Luật BVMT) và trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải (Điều 55, Luật BVMT) của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu cũng như hướng dẫn các hình thức, phương án thực hiện trách nhiệm cụ thể tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP. Đối với trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải, doanh nghiệp sẽ đóng góp tài chính vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để hỗ trợ các hoạt động xử lý chất thải (Điều 83, Nghị định 08/2022/NĐ-CP). Đối với trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì, doanh nghiệp có 4 hình thức thực hiện trách nhiệm theo Điều 79, Nghị định 08: (i) Tự thực hiện tái chế; (ii) Thuê đơn vị tái chế để thực hiện tái chế; (iii) Ủy quyền cho tổ chức trung gian để tổ chức thực hiện tái chế; (iv) Kết hợp cách trên. Với mỗi cách thức, hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cũng đang xây dựng các quy định, định mức chi tiết hơn để hướng dẫn doanh nghiệp thực thi hiệu quả và tránh vướng mắc. Trong năm 2022 vừa qua, WWF-Việt Nam đã hỗ trợ Bộ TN&MT nghiên cứu, đề xuất định mức chi phí tái chế Fs cho ngành bao bì nhựa để xác định phí EPR, dự kiến sẽ được ban hành trong năm 2023.
Phóng viên: Xin ông cho ví dụ về một vài mô hình vận hành EPR trên thế giới?
Ông Phạm Mạnh Hoài:
“Nghiên cứu đánh giá cơ chế EPR đối với chất thải bao bì tại Việt Nam” thực hiện vào năm 2020 bởi WWF phối hợp với liên doanh INTECUS và cyclos cho thấy cơ chế EPR đối với các loại chất thải, bao gồm chất thải bao bì, là khác nhau ở các quốc gia và được giới thiệu lần đầu tiên tại châu Âu và các nước OECD. Cho đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng hoặc đang trong quá trình áp dụng những hệ thống quản lý chất thải kết hợp với các yếu tố của EPR. Hơn nữa, một số công ty và hiệp hội doanh nghiệp đã đưa ra các cam kết và sáng kiến tự nguyện nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang quản lý chất thải bền vững và KTTH thông qua việc thúc đẩy các cơ chế EPR.
Tại Pháp, EPR đối với bao bì được Citeo quản lý, đây là một PRO duy nhất, phi lợi nhuận, do doanh nghiệp quản lý đang hoạt động tại Liên minh châu Âu. Tổ chức này được thành lập năm 2017 và được Chính phủ Pháp chứng nhận trong vòng 5 năm và tiến hành kiểm toán hàng năm. Citeo có khoảng 250 nhân viên và khoảng 28.000 doanh nghiệp thành viên. Hội đồng quản lý của Citeo bao gồm các đại diện của khu vực tư nhân (công nghiệp, bán lẻ và bán hàng từ xa, lĩnh vực báo chí và xuất bản, ngành vật liệu và dịch vụ) cũng như một đại diện của nhà nước. Các doanh nghiệp thành viên đóng góp vào Citeo, Citeo quản lý nguồn tài chính và ký hợp đồng với chính quyền địa phương. Đối với bao bì, Citeo quản lý 710 triệu Euro (€) do 20.559 doanh nghiệp đóng góp, có hợp đồng với 706 chính quyền địa phương, thu gom 3,549 triệu tấn rác thải bao bì, cung cấp dịch vụ thu gom tới 100% cư dân và đạt được tỷ lệ tái chế là 70% năm 2018 (theo định nghĩa về “tái chế” của họ). Từ mỗi Euro doanh nghiệp đóng góp, 0,50 € được chi trả cho hoạt động thu gom và 0,29 € cho hoạt động phân loại chất thải bao bì. Số tiền còn lại được dùng như sau: 0,03 € cho hoạt động thu hồi nguyên liệu và tái chế, 0,04 € cho thu hồi năng lượng, 0,03 € cho các chương trình thiết kế phù hợp với môi trường và nghiên cứu và phát triển, 0,07 € để nâng cao nhận thức, 0,04 € cho hoạt động hỗ trợ và vận hành. Bên cạnh bao bì, Pháp đã từng bước lập ra một số cơ chế EPR khác cho các loại chất thải khác nhau (ví dụ: bao bì từ năm 1993, pin từ năm 2001, lốp xe từ năm 2004, xe hơi và các thiết bị điện, điện tử thải bỏ từ năm 2006, vải sợi từ năm 2007, đồ đạc trong nhà từ năm 2012, du thuyền và thuyền đua từ năm 2016).
Mô hình tại Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc, Cơ quan dịch vụ tuần hoàn tài nguyên Hàn Quốc (KORA) là đơn vị điều hành trong cơ chế EPR. Cơ quan này có khoảng 600 doanh nghiệp thành viên và khoảng 90 nhân viên. KORA quản lý dòng tài chính để hỗ trợ hoạt động thu gom, phân loại và tái chế liên quan tới 4 loại vật liệu bao bì (hộp kim loại, chai thủy tinh, bao bì các-tông và một số loại nhựa nhất định) cũng như các sản phẩm khác (lốp xe, dầu nhớt, pin, đèn huỳnh quang và phao đánh cá). KORA nhận kinh phí từ Hợp tác xã tái chế bao bì Hàn Quốc (KPRC), tổ chức này thu phí từ các doanh nghiệp thành viên. KPRC được thành lập năm 2013 trên cơ sở hợp nhất các hợp tác xã khác nhau đã tồn tại từ 2003 và ban đầu hoạt động trong các lĩnh vực chất thải bao bì khác nhau. KPRC có khoảng 4.700 doanh nghiệp thành viên và 40 nhân viên. Bộ Môi trường cung cấp khung pháp lý và chính sách. KPRC và KORA nằm dưới sự giám sát của Tập đoàn môi trường Hàn Quốc (KECO).
Việc thực hiện và vận hành một cơ chế EPR có tầm ảnh hưởng lớn với nhiều ngành khác nhau, do vậy, các quy định về EPR tại Việt Nam hiện nay cũng được xây dựng trên cơ sở tham khảo, tham vấn từ rất nhiều kinh nghiệm quốc tế và từ các quốc gia có điều kiện tương đồng (Hàn Quốc, Đài Loan,…) nhằm triển khai hiệu quả và giải quyết các thách thức trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông./.
Diệp Anh (thực hiện)