news

Thủy sản và Kiểm ngư - 80 năm đồng hành cùng ngành Nông nghiệp và Môi trường

Thứ ba, 25/11/2025, 06:41 (GMT+7)
logo Trong những năm qua, ngành Thủy sản đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tổng sản lượng thủy sản hàng năm đạt khoảng 8 - 9 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 8,5 - 10 tỷ USD. Sản phẩm thủy sản được xuất khẩu sang 160 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường quan trọng như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN...

Lịch sử hình thành và phát triển ngành Thủy sản trải qua 4 giai đoạn và đã đạt được những thành tựu nổi bật. 

Giai đoạn trước năm 1975 

Việt Nam có chiều dài bờ biển trên 3.260 km, với vùng đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2, hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Biển Đông có vị trí chiến lược quan trọng, nằm trên đường giao thương quốc tế về hàng hải, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, phương Đông với phương Tây, châu Á với phần còn lại của thế giới. 

gen-h-z7062454067013_5fb1e2c816fc8e477e52abf708257436_1763954566.webp
Bác Hồ kéo lưới cùng bà con ngư dân trong chuyến thăm và làm việc với Tỉnh ủy và tham dự Đại hội Công đoàn tỉnh Thanh Hóa, tháng 7/1960. (Ảnh: Tư liệu)

Là quốc gia ven biển, có lợi thế về điều kiện tự nhiên và nguồn lợi thủy sản để phát triển kinh tế thủy sản, nghề cá Việt Nam có từ rất sớm. Những năm trước thập kỷ 50 của thế kỷ XX, nghề cá Việt Nam vẫn mang đậm dấu ấn của hoạt động tự cấp, tự túc, trình độ sản xuất còn lạc hậu, hoạt động nghề cá chỉ được xem như một nghề phụ trong sản xuất nông nghiệp. Từ sau những năm 1950, cùng với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước đã bắt đầu quan tâm phát triển nghề cá, kinh tế thủy sản bước đầu có đóng góp đáng kể vào nền kinh tế quốc dân. 

Khi về thăm làng cá và ngư dân trên các đảo Tuần Châu, Cát Bà vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 năm 1959, Bác Hồ đã căn dặn “Biển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ”. 

Năm 1960, Tổng cục Thủy sản được thành lập, đánh dấu thời điểm ra đời của ngành Thủy sản Việt Nam. Kinh tế thủy sản đã bước đầu phát triển để hình thành một ngành kinh tế kỹ thuật với các tổ chức nghề cá công nghiệp như: Đoàn tàu đánh cá Hạ Long, Việt - Đức, Việt - Trung, Nhà máy cá hộp Hạ Long, phong trào hợp tác xã nghề cá được triển khai rộng khắp. Đây là thời kỳ đất nước có chiến tranh, cán bộ và ngư dân ngành Thủy sản luôn “vững tay lưới, chắc tay súng”, thi đua lao động sản xuất với tinh thần “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, cùng cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: “Xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước”. Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển có đóng góp công sức rất lớn của ngư dân. 

Đến năm 1975, sản lượng khai thác cá biển đạt gần 100.000 tấn, thu mua và chế biến hải sản hơn 51.000 tấn, nuôi trồng đạt 1.800 tấn và 356 hợp tác xã nghề cá được hình thành và phát triển. 

Giai đoạn 1976 - 1986 

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, non sông liền một dải đã mở ra vận hội, cơ hội mới để phát triển ngành Thủy sản.

Năm 1976, Bộ Hải sản được thành lập. Năm 1981 được tổ chức lại thành Bộ Thủy sản, ngành Thủy sản bước vào giai đoạn phát triển toàn diện cả về khai thác, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thủy sản và hậu cần dịch vụ nghề cá, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất, bước đầu tham gia hội nhập với nghề cá thế giới. 

Việc ngành Thủy sản được Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế “tự cân đối, tự trang trải” đã đưa xuất khẩu thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo nguồn lực cân đối chính cho ngành. Phong trào “Ao cá Bác Hồ” được phát động và xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến như: Công ty Xuất nhập khẩu Thủy sản (Seaprodex Việt Nam); các hợp tác xã đánh cá tại Hải Phòng, Thái Bình, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang... đã tạo động lực mới cho sự phát triển bền vững của ngành. Việc phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng và xây dựng KT - XH vùng biển đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của ngành Thủy sản. 

Cơ cấu nghề nghiệp, đối tượng khai thác được điều chỉnh phục vụ xuất khẩu. Nuôi trồng thủy sản, trong đó có nuôi tôm xuất khẩu bắt đầu chú trọng phát triển. Năng lực chế biến thủy sản được mở rộng với nhiều mặt hàng mới phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. 

Năm 1986, tổng sản lượng thủy sản đạt hơn 840 nghìn tấn, trong đó khai thác đạt gần 600 nghìn tấn, nuôi trồng đạt hơn 240 nghìn tấn, thu mua hải sản đạt hơn 370 nghìn tấn. Có nhiều nhà máy chế biến xuất khẩu đạt 100 triệu USD, cả nước có 563 hợp tác xã và 2.321 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất thủy sản. 

Giai đoạn 1987 - 1995

Từ năm 1991, toàn ngành tập trung thực hiện chiến lược phát triển ngành Thủy sản với 3 mục tiêu chính được Chính phủ giao là: Đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ xuất khẩu và tạo việc làm cho người dân ven biển. 

Năm 1993, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá VII xác định xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn. Việc áp dụng thành công cơ chế mới gắn sản xuất với thị trường đã tạo ra bước ngoặt quan trọng cho sự phát triển của ngành. 

Việc đưa tàu cá đi khai thác ở vùng khơi và tăng cường xây dựng cơ sở hậu cần nghề cá tạo điều kiện cho khai thác hải sản phát triển mạnh. Nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển, phương thức, đối tượng nuôi đa dạng, cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong đó, nuôi tôm sú ở Đồng bằng sông Cửu Long phục vụ xuất khẩu tiếp tục được đẩy mạnh. 

Chế biến thủy sản đã hướng tới đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng mặt hàng xuất khẩu. Ngành Thủy sản tập trung đổi mới phương thức quản lý chất lượng và an toàn sản phẩm, tiếp cận và từng bước đáp ứng đòi hỏi của các thị trường lớn, nhờ đó sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã tạo được uy tín và đứng vững trên thị trường thế giới. Các thành phần kinh tế được thu hút, đầu tư phát triển, góp phần phát huy thế mạnh của nghề cá nhân dân. 

Năm 1995, tổng sản lượng thủy sản đạt 1,34 triệu tấn, trong đó: Khai thác đạt 928,8 nghìn tấn, nuôi trồng đạt 415,3 nghìn tấn, xuất khẩu đạt 550 nghìn USD. Giai đoạn 1980 - 1990, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trung bình 48,29%/năm; đến giai đoạn 1991 - 1995, xuất khẩu tăng và vẫn duy trì ở mức 15,97%/năm. 

Giai đoạn từ năm 1996 đến nay 

Năm 2017, Luật Thủy sản được Quốc hội thông qua (thay thế Luật Thủy sản năm 2003) và các văn bản QPPL khác là cơ sở pháp lý quan trọng để ngành Thủy sản tiếp tục phát triển mạnh, duy trì nhịp độ tăng trưởng cao. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra mục tiêu: “Đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển...”. Đồng thời, hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển. 

z7144042126721_1ed9cff16241b82280b225364177b800_1763954673.webp
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng dự buổi lễ ra mắt lực lượng kiểm ngư Việt Nam tại Đà Nẵng, năm 2014. (Ảnh: Tư liệu)

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chiến lược đã xác định quan điểm, đó là: “Xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế có quy mô và tỷ suất hàng hóa lớn, có thương hiệu uy tín, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững. Hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển có trách nhiệm theo hướng kinh tế tuần hoàn, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và hiệu quả; thu hút nguồn lực các thành phần kinh tế đầu tư phát triển thủy sản hiệu quả với lực lượng doanh nghiệp là nòng cốt. Đến năm 2045, thủy sản là ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững, là trung tâm chế biến thủy sản sâu, thuộc nhóm 3 nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản dẫn đầu thế giới; giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu các ngành kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển, góp phần bảo đảm an ninh dinh dưỡng, thực phẩm; bảo đảm an sinh xã hội, làng cá xanh, sạch, đẹp, văn minh, lao động thủy sản có mức thu nhập ngang bằng mức bình quân chung cả nước, góp phần bảo đảm QP - AN, giữ vững độc lập, chủ quyền biển đảo của Tổ quốc...”

Để thực hiện Chiến lược này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng, trong đó có 2 quy hoạch ngành cấp quốc gia, 4 chương trình cấp quốc gia và gần 10 đề án/dự án... 

Tuy nhiên, việc thực hiện 2 Chiến lược nêu trên trong bối cảnh còn nhiều thách thức như: Tình hình trên biển Đông luôn diễn biến phức tạp; thiên tai, dịch bệnh vẫn là những rủi ro lớn; biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, đặc biệt là tác động của hạn hán, xâm nhập mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long ảnh hưởng đến sản xuất thủy sản; chi phí sản xuất ở mức cao, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh quốc tế; Thẻ vàng của Ủy ban châu Âu làm ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu thủy sản và uy tín quốc gia; việc đầu tư được quan tâm nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của ngành Thủy sản; bên cạnh đó, các quốc gia nhập khẩu thủy sản của Việt Nam ngày càng tăng cường các rào cản kỹ thuật... 

Để đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành cũng như của đất nước, giai đoạn này ngành Thủy sản và Kiểm ngư đã đổi mới tư duy toàn diện để quản lý nghề cá bền vững, hiện đại, hội nhập quốc tế đó là: Công tác bảo tồn, bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản tiếp tục được quan tâm đặc biệt, coi đây là vấn đề cốt lõi để phát triển bền vững; chủ động điều chỉnh giảm dần số tàu khai thác, nhất là các tàu khai thác ven bờ, đồng thời tăng cường tàu khai thác xa bờ. Tăng cường nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi biển công nghiệp, sản phẩm hàng hóa thủy sản được quản lý theo chuỗi, gắn với nhu cầu thị trường. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được ứng dụng vào sản xuất thủy sản để nâng cao giá trị sản phẩm. Lực lượng kiểm ngư đã phát triển đồng bộ đến các địa phương ven biển, hạ tầng nghề cá được quan tâm đầu tư qua việc bố trí ngân sách nhà nước và thu hút đầu tư từ các dự án nước ngoài để xây mới, nâng cấp hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh, trú bão tàu cá, hạ tầng các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung. Đặc biệt, công cuộc chống khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU), gỡ thẻ vàng của Ủy ban châu Âu là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của toàn hệ thống chính trị, trong đó có các địa phương ven biển. 

Hiện nay, Việt Nam trở thành 1 trong 3 nước xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới, giữ vai trò chủ đạo cung cấp thủy sản toàn cầu. Với khoảng 1 triệu lao động trực tiếp trên biển và khoảng 4 triệu lao động dịch vụ nghề cá, hoạt động khai thác thủy sản giải quyết sinh kế, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng ven biển, hải đảo. Đồng thời, góp phần rất quan trọng trong công cuộc bảo vệ an ninh, chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng tham gia phát triển thủy sản ngày càng được nâng cao, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 

Năm 2024, sản lượng thủy sản đạt hơn 9,61 triệu tấn, gấp hơn 5 lần so với năm 1996. Trong đó, sản lượng khai thác thủy sản đạt 3,825 triệu tấn, tăng 0,3%, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 5,721 triệu tấn, tăng 4,03%. Nuôi biển đạt diện tích 1,3 triệu ha và 9,7 triệu m³ lồng nuôi, tăng 2,1%. Sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã xuất khẩu tới hơn 170 thị trường lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc..., kim ngạch xuất khẩu lần đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD (năm 1999), đạt gần 11 tỷ USD (riêng năm 2022), trên 10 tỷ USD năm 2024, đưa Việt Nam vào vị trí số 3 trong các nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới...

Trong nhiều năm qua, ngành Thủy sản Việt Nam đã chứng minh là ngành kinh tế giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước với quy mô ngày càng mở rộng, có tốc độ tăng trưởng cao, tạo ra giá trị sản xuất hàng hóa lớn, có những sản phẩm đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD/năm. 

Cơ cấu ngành Thủy sản được thay đổi mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng, giảm khai thác, nhất là các nghề ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản, tăng chế biến sản phẩm có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là đa dạng hóa các sản phẩm xuất khẩu. Hoạt động thủy sản đã tạo việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; đổi mới và phát triển các hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất, đời sống người dân được nâng cao, cơ sở hạ tầng, dịch vụ hậu cần thủy sản có những chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh dinh dưỡng và phát triển kinh tế của đất nước. 

Trong giai đoạn tới, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết số 36-NQ/TW về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 và Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2045, trước bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu nhất là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long..., ngành Thủy sản tiếp tục được đặt vào vị trí quan trọng trong bức tranh chung của phát triển kinh tế đất nước nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và đóng góp chung trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng. 

Ngành Thủy sản đã nhận được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Nhà nước, có những chiến lược, chính sách để ưu tiên, phát triển cho thủy sản một cách bền vững, điều đó được thể hiện thông qua việc ban hành các chiến lược, chính sách. Tiêu biểu như: Quyết định số 332/QĐ-TTg ngày 03/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản đến năm 2020; Quyết định số 1445/QĐ-TTg ngày 16/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Quyết định số 79/QĐ-TTg ngày 18/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia phát triển ngành tôm Việt Nam đến năm 2025; Quyết định số 2760/QĐ-BNN-TCTS ngày 22/11/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành Thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” và Quyết định số 1167/QĐ-BNN-TCTS ngày 28/5/2014 ban hành Chương trình hành động thực hiện đề án “Tái cơ cấu ngành Thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”; Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản; Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 01/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 985/QĐ-TTg ngày 16/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình Quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021 - 2030 và nhiều chương trình, đề án phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với tôm, cá tra... 

le-minh-hoan_1763954739.webp
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan thăm vùng nuôi thủy sản tại tỉnh Quảng Ninh, tháng 3/2024. (Ảnh: Tư liệu)

Song song với đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như: Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý; tổ chức lại sản xuất, khuyến khích hình thành các chuỗi liên kết khai thác thủy sản trên biển, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, đảm bảo an toàn cho người và tàu cá; thực hiện cấp mã số nhận diện cở sở nuôi phục vụ công tác truy xuất nguồn gốc; ứng dụng KH&CN, chuyển đổi số vào sản xuất thủy sản nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm; khuyến khích phát triển hình thức nuôi thân thiện môi trường và áp dụng thực hành nuôi tốt (GAP), tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra, kiểm soát trên biển, bảo vệ ngư trường, bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Ngoài ra, hệ thống các nhà máy chế biến đạt chuẩn và kiểm soát an toàn thực phẩm đã được hoàn thiện, giúp sản xuất duy trì và phát triển hoạt động xuất khẩu. 

Hiện nay, nuôi trồng thủy sản trên biển (nuôi biển) đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế biển nhằm đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển trong thế kỷ của biển và đại dương. 

Chủ trương phát triển nuôi biển đã được Đảng, Nhà nước xác định tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Quyết định số 985/QĐ-TTg ngày 16/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình Quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021 - 2030 và Quyết định số 1664/QĐ-TTg ngày 04/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. 

phung-duc-tien_1763954781.webp
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến thăm mô hình nuôi tôm biển - rong biển tại Cà Mau, năm 2024. (Ảnh: Tư liệu)

Mục tiêu đến năm 2030, nghề nuôi biển nước ta đạt sản lượng 1,45 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 - 2,0 tỷ USD. Phát triển nuôi biển không chỉ thúc đẩy KT - XH mà còn góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản cho tương lai, giảm áp lực khai thác, hình thành ngành Thủy sản “Minh bạch - trách nhiệm - bền vững”, có kiểm soát, được quản lý theo khuyến nghị của quốc tế, tạo dựng hình ảnh quốc gia có trách nhiệm đối với các vấn đề có tính toàn cầu. 

Thực hiện mục tiêu Chính phủ đề ra đến năm 2030 về tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất thủy sản đạt 3,0 - 4,0%/năm; tổng sản lượng thủy sản sản xuất trong nước đạt 9,8 triệu tấn; giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 14 - 16 tỷ USD.

Trong lĩnh vực kiểm ngư, mặc dù mới được thành lập (năm 2013) nhưng hệ thống kiểm ngư được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, khẳng định được vai trò, vị trí trong thực thi pháp luật thủy sản trên các vùng biển. Các Chi cục Kiểm ngư vùng thường xuyên tổ chức các chuyến tuần tra, kiểm tra, kiểm soát tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ, Tây Nam Bộ. Đây là 2 vùng biển có ngư trường khai thác truyền thống của ngư dân, tập trung nhiều tàu và nhạy cảm về an ninh, chủ quyền. 

Từ 2017 đến nay, lực lượng kiểm ngư luôn gắn nhiệm vụ tuần tra, kiểm tra, kiểm soát với chống khai thác IUU và tuyên truyền pháp luật thủy sản cho ngư dân, tập trung xử lý các hành vi vi phạm nghiêm trọng theo quy định của pháp luật đã góp phần vào kết quả khắc phục cảnh báo thẻ vàng của EC.

Tham gia phối hợp phòng, chống thiên tai chuyên ngành thủy sản; phối hợp với các lực lượng như biên phòng, cảnh sát biển... tham gia bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo trên các vùng biển trong thực thi pháp luật thủy sản. Cung cấp, trao đổi thông tin kịp thời giữa các đơn vị để giải quyết các vụ việc theo chức năng, nhiệm vụ. Chủ động phối hợp với các nước (Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Brunei...) và các tổ chức quốc tế để phát triển lực lượng và chống khai thác IUU.

Ngoài ra, để giúp ngư dân yên tâm vươn khơi bám biển, những con tàu của lực lượng kiểm ngư đã và đang sẵn sàng đồng hành cùng bà con trên những hải trình ngoài khơi xa. Lực lượng kiểm ngư đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ ngư trường, sát cánh cùng ngư dân, trở thành điểm tựa vững chắc cho ngư dân khai thác trên các vùng biển, thềm lục địa của Tổ quốc. 

Song song với nhiệm vụ tuần tra, lực lượng kiểm ngư đã thường xuyên kết hợp việc kiểm tra hành chính với tuyên truyền, vận động ngư dân chấp hành pháp luật trên biển, nhất là với các tàu cá đang khai thác gần đường phân định... 

Để hướng tới đưa ngành Thủy sản và Kiểm ngư phát triển bền vững, ngành Thủy sản đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm đó là: Giảm cường lực khai thác, tăng nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi biển, nuôi các đối tượng có tiềm năng, giá trị kinh tế như: Tôm, cá tra, nhuyễn thể, rong biển... Tập trung phát triển các mặt hàng đã có thế mạnh, tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế như tôm sú, cá ba sa. Tổ chức lại sản xuất, khuyến khích hình thành các chuỗi liên kết, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất; thực hiện cấp mã số nhận diện cơ sở nuôi phục vụ công tác truy xuất nguồn gốc; ứng dụng KH&CN vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm... Tổ chức mô hình cho ngư dân chuyển đổi nghề từ khai thác ven bờ sang nuôi trồng và chế biến (cá, rong biển, nhuyễn thể...) theo mô hình quản lý cộng đồng có sự liên kết chặt giữa người dân, nhà chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt, cần đẩy mạnh phát triển nghề nuôi biển.

Với những đóng góp to lớn cho ngành Nông nghiệp và Môi trường và sự phát triển của đất nước, ngành Thủy sản đã vinh dự được Nhà nước, Chính phủ tặng thưởng nhiều Huân, huy chương, bằng khen như: Huân chương Sao vàng, Huân chương Lao động...

tr-38c-1_1763954844.webp

tr-38c_1763954876.webp

Cục Thủy sản và Kiểm ngư

Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường