
Biển - cánh đồng cuối cùng của hành tinh
Biển được ví như “cánh đồng cuối cùng của hành tinh” - nơi dự trữ cuối cùng của loài người về các nguồn lương thực, thực phẩm, nhiên nguyên liệu, đặc biệt từ Thế kỷ 21 khi các nguồn tài nguyên trên đất liền đã bị khai thác quá mức, cạn kiệt. Bên cạnh các giá trị thu được từ khai thác và phát huy tiềm năng, lợi thế từ cánh đồng cuối cùng của hành tinh thì con người cũng đang là thủ phạm gây ra những “món nợ” với biển. Không phải chỉ trên đất liền, mà biển cũng đang bị khai thác quá mức, bị ô nhiễm, nguồn lợi biển bị cạn kiệt, san hô bị tẩy trắng, đa dạng sinh học biển bị suy giảm,… liên quan tới hành vi ứng xử thiếu thân thiện của con người. Bên cạnh đó, biển tiếp tục chịu tổn thương trên diện rộng bởi các tác động cộng hưởng của biến đổi khí hậu, biến đổi đại dương với xu thế ngày càng cực đoan.
Nói cách khác, biển vẫn tiếp tục bị đầu độc bởi các nguồn thải vào biển không qua xử lý, bởi cách ứng xử thiếu thân thiện của con người trong khai thác biển, bởi phát triển “nóng” và nạn khai thác tài nguyên biển - ven biển quá mức. Ảnh hưởng xấu như vậy biểu hiện ở mức độ khác nhau, trong tất cả các phân ngành, lĩnh vực của kinh tế biển. Điều này khiến cho biển đang phải đối mặt với các vấn đề an ninh biển phi truyền thống, sự phát triển thiếu bền vững, nguồn vốn tự nhiên biển bị hao kiệt ở mức báo động, nguy cơ mất dần sự sống của các loài. Cuối cùng, những mất mát đó sẽ tác động trở lại mục tiêu phát triển kinh tế biển của đất nước.
Công bằng mà nói, biển và đại dương cho con người nhiều thứ, nhưng cũng lấy đi của chúng ta nhiều thứ, mức độ mất đi bao nhiêu hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ và cách ứng xử của chính chúng ta. Nhiệm vụ cấp kíp của chúng ta là phải kiên quyết giữ được những thứ chưa mất, “đòi lại” bằng được những thứ đã mất, lấy lại cân bằng sinh thái tự nhiên của các vùng biển, gìn giữ nguồn vốn tự nhiên và vốn văn hoá biển cho phát triển kinh tế biển xanh, giảm thiểu rác thải nhựa, tái cơ cấu kinh tế biển, kiểm soát tốt các nguồn thải vào biển, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, phát triển các ngành/lĩnh vực kinh tế biển xanh và tái tạo nguồn lợi biển.
Và để giữ được cánh đồng cuối cùng của hành tinh cho thế hệ con cháu chúng ta, cần chú ý quán triệt và thực hiện các yêu cầu giải pháp (tương ứng 6 động từ hành động) cơ bản sau: Duy trì nguồn vốn tự nhiên biển; Bảo tồn thiên nhiên biển, bao gồm cảnh quan biển; Bảo vệ môi trường biển khỏi bị ô nhiễm và suy thoái; Phát triển hiệu quả kinh tế biển dựa trên nền tảng của kinh tế biển xanh và tuần hoàn; Thực thi nghiêm túc pháp luật về biển và kinh tế biển; Truyền thông nâng cao nhận thức và kiến thức cho các tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp và cộng đồng dân cư ven biển và trên đảo.
Đất nước ta ba phần là biển - một không gian sinh tồn (phát triển và an ninh quốc gia) và nối liền một dải với phần lãnh thổ đất liền. Vì thế, biển đảo luôn luôn và mãi mãi quan trọng đối với dân tộc Việt Nam ta. Năm 1959, Bác Hồ đã căn dặn: “Biển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ!” với một hàm ý rằng biển của ta giàu và đẹp, chúng ta có trách nhiệm gìn giữ, bảo vệ. Thấm nhuần tư tưởng và ý chí biển cả của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt biển, đảo và kinh tế biển ở vị trí xứng đáng trong chiến lược phát triển đất nước. Đây là một hướng đi đúng, một cách nhìn xa trông rộng, một tầm nhìn toàn diện. Người Việt Nam ta đã gắn bó và ra khai thác biển, đảo từ thời xa xưa, không nhớ tự bao giờ; biển đã nuôi sống bao người và bao đời người dân Việt. Vì vậy, trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, cùng với sự đổi thay của đất nước, kinh tế biển đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, khoảng 58%, trong đó kinh tế thuần biển khoảng 7%, góp phần xây dựng đất nước phồn thịnh.
Trong các nghị quyết của Đảng và kế hoạch phát triển KT-XH định kỳ 10 năm, kinh tế biển luôn được xác định là then chốt, đóng góp cho việc bảo đảm vững chắc an ninh, chủ quyền biển đảo của đất nước. Hiện nay, cả nước đang nỗ lực phát triển kinh tế biển theo hướng hiệu quả và bền vững, “làm sao có của ăn, của để”, góp phần thực hiện “Khát vọng Việt Nam” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, dựa vào biển, tiến ra biển.
Đánh thức tiềm năng của biển bạc
Về bản chất, các hệ thống tài nguyên biển có tính chia sẻ và đa dụng, nên một hệ thống tài nguyên hay một vùng biển đều là đối tượng sử dụng của nhiều ngành. Do vậy, để đánh thức tiềm năng của “biển bạc” không phải chỉ tập trung đầu tư phát triển cho một ngành nào, mà phải chấp nhận phát triển đa ngành và bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các ngành. Đặc biệt, là phải biết liên kết giữa chúng với nhau để tối ưu hoá lợi ích kinh tế cho một đơn vị biển, trong khi vẫn giảm thiểu được xung đột không gian trong khai thác, sử dụng cùng một vùng biển.
Vùng ven biển nước ta được xem là vùng kinh tế động lực, là nơi tập trung sôi động các hoạt động phát triển của con người, của các ngành kinh tế. Trong đó, khoảng 60% các đô thị lớn với hơn 50% dân số cả nước tập trung ở 28 tỉnh/thành phố trung ương có biển. Kinh tế biển của 28 tỉnh/thành phố này đã đóng góp lớn cho kinh tế đất nước như nói trên, trong đó kinh tế các đô thị ven biển có đóng góp rất đáng kể. Tuy nhiên, trong thực tế, du lịch, cảng,… được xem là phân ngành của kinh tế biển, còn kinh tế các đô thị ven biển vẫn chưa từng được đề cập khi bàn đến kinh tế biển, và chưa chính thức trở thành một phân ngành kinh tế biển. Cho nên, việc hình thành hệ thống đô thị biển hiểu theo đúng nghĩa của nó là cần thiết, bao gồm: Đô thị ven biển, đô thị đảo, đô thị trên biển, đô thị dưới đáy biển trong tương lai. Phát triển hệ thống đô thị biển như vậy để Việt Nam thực sự tiến biển, để không đứng mãi ở ven bờ. Đó là vấn đề sinh tồn và là chiến lược sống còn nhờ vào biển, “lấy đại dương nuôi đất liền”.
Nhìn lại quá khứ, các đô thị ven biển trên thế giới và ở nước ta đều đã dựa trên mô hình: Cảng - biển - đô thị - công nghiệp - dịch vụ, như: TP. Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu,… Gần đây, mô hình này tiếp tục được nhân rộng hoặc sẽ phát triển theo xu hướng đó, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, như các khu kinh tế: Vân Đồn, Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây, Chu Lai-Dung Quất, Nhơn Hội,... đều phát triển gắn với cảng nước sâu, và sẽ xuất hiện thành phố cận kề cảng biển trong tương lai gần. Ví dụ, thành phố cận kề khu kinh tế biển và cảng nước sâu Vũng Áng (Hà Tĩnh) có thể sẽ là thành phố Kỳ Anh trong tương lai.
Đô thị đảo ở nước ta, ngoài các Thị trấn (Town) của 12 huyện đảo, thì mới có Thành phố Phú Quốc được Chính phủ quyết định thành lập, nhưng khâu chuẩn bị quy hoạch chưa đúng tinh thần từ sớm, từ xa nên đang vấp phải một số khó khăn cần điều chỉnh. Và, muốn có đô thị nổi trên biển, đô thị dưới đáy biển, cũng phải chuẩn bị từ bây giờ, đến khi cần là ứng dụng được ngay, không bị vấp váp.
Một số nguyên tắc, giải pháp trong phát triển bền vững biển đảo
Chúng ta đều biết, tài nguyên biển phân bố theo không gian ba chiều, mang tính xuyên biên giới, gồm các hệ tài nguyên chia sẻ, đa dụng. Cho nên, các hệ tài nguyên/vùng biển là những đối tượng sử dụng đa ngành, tạo lợi ích kép, cần cơ chế quản lý liên ngành. Nhưng trong thực tế, chúng chỉ được quản lý theo ngành (khoảng 15 bộ, ngành và 28 địa phương ven biển đều có chức năng, nhiệm vụ quản lý biển theo thẩm quyền), nên gây ra những mâu thuẫn lợi ích và xung đột không gian sử dụng trong cùng một vùng biển, đòi hỏi phải giảm thiểu. Đồng thời, lĩnh vực biển, đảo đã được Nhà nước đặc biệt quan tâm, thông qua việc ban hành các cơ chế, chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, quy mô phát triển kinh tế biển nước ta hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng và những giá trị mà biển đem lại.
Vì vậy, để tiến ra biển, khắc phục các khó khăn vướng mắc trên, cần phải đầu tư cho kinh tế biển phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, duy trì tính bền vững và có sự quản lý thống nhất về mặt nhà nước. Biển phải được quản lý theo phương thức tổng hợp, dựa theo cách tiếp cận quản lý không gian với sự hỗ trợ của công cụ phân vùng chức năng và quy hoạch không gian biển đã được quy định trong Luật Quy hoạch năm 2017.
Đó là những nguyên tắc và vấn đề mới mẻ đối với các nhà quản lý và hoạch định chính sách của Việt Nam nói chung và về biển nói riêng. Quản lý tổng hợp biển đòi hỏi xác lập một cơ chế phối hợp liên ngành và giải quyết đồng bộ các quan hệ khác nhau, trong đó, quan hệ giữa các mảng không gian cho phát triển kinh tế biển và tổ chức không gian biển hợp lý cho phát triển đến năm 2030 nhằm hài hoà lợi ích giữa các bên là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cần đi trước một bước. Đó cũng là nội hàm của công tác quy hoạch không gian biển quốc gia của nước ta hiện đang triển khai.
Bài học của thế giới cho thấy, một quốc gia muốn trở thành một cường quốc biển phải: Áp dụng thành công phương thức quản lý tổng hợp biển với những cơ chế chính sách liên ngành, liên vùng, liên cơ quan; phải thống nhất quản lý nhà nước về biển thông qua một thể chế quản trị đủ mạnh; khoa học - công nghệ biển phải tiên tiến và hiện đại, áp dụng không chỉ trong điều tra, nghiên cứu biển mà còn trong khai thác, sử dụng biển; khai thác, sử dụng không gian biển, đảo hiệu quả, có chọn lọc, tiết kiệm tài nguyên. Ví dụ, muốn có công nghiệp đánh bắt hải sản thực sự hiệu quả thì phương tiện, phương pháp đánh bắt cũng phải khác. Hệ thống quản lý, thông tin liên lạc cũng phải khác. Gọi mãi không biết nhau ở đâu giữa đại dương mênh mông thì làm sao đón lõng, bắt được những đàn cá di cư đúng độ tuổi, đúng chất lượng,...
Cho nên, để “mạnh từ biển, giàu từ biển” như mục tiêu của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra, trong điều kiện nguồn lực thực hiện còn eo hẹp, cần phải triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp. Trong đó, chú trọng đến các nhóm giải pháp mang tính đột phá, như: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách biển và kinh tế biển bền vững; phát triển và ứng dụng hiệu quả các thành tựu khoa học - công nghệ biển tiên tiến, hiện đại; giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao cho kinh tế biển. Bên cạnh đó, cần triển khai thực hiện các nhóm giải pháp hỗ trợ, như: Khai thác, sử dụng tiết kiệm tài nguyên biển; bảo vệ môi trường biển hiệu quả, trong đó có rác thải nhựa; phát huy các giá trị văn hoá biển đặc trưng Việt Nam; phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở đa dụng phục vụ phát triển kinh tế biển; tăng cường và mở rộng hợp tác, hội nhập quốc tế về biển thực chất và hiệu quả; duy trì môi trường hoà bình ở Biển Đông.
Biển Đông hiện “vẫn yên, mà không ổn” và cục diện tình hình trên biển tiếp tục diễn biến phức tạp, chứa đựng yếu tố khó lường. Lợi ích trong vùng biển này mang tính chất đan xen giữa các nước trong khu vực, giữa các nước trong và ngoài khu vực, giữa các nước lớn, giữa khu vực và toàn cầu. Đặc biệt, đây cũng là nơi “va chạm” giữa các chiến lược nước lớn: Sáng kiến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng mở và tự do của Mỹ và Sáng kiến Con đường tơ lụa trên biển Thế kỷ 21 của Trung Quốc.
Nếu tình hình không được kiểm soát tốt, linh hoạt và khôn khéo thì không chỉ ảnh hưởng đến chủ quyền và an ninh quốc gia của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam, mà còn ảnh hưởng đến hoà bình, an ninh khu vực và thế giới. Đối với Việt Nam, tình hình Biển Đông như vậy có tác động ở mức độ khác nhau đến không gian phát triển kinh tế biển và mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển đất nước theo tinh thần Nghị quyết số 36/NQ-TW. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền, các quyền và lợi ích khác của nước ta trên Biển Đông hoàn toàn phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Vấn đề này cũng đã được thể hiện trong các Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam: Về các vùng biển của Việt Nam (1977), về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải (1988); trong quy định của Luật Biên giới quốc gia (2003) và Luật Biển Việt Nam (2012). Đặc biệt, cuối năm 2023 nước ta đã ký tham gia Hiệp định biển cả về “Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển tại vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia”.
Việt Nam kiên trì, kiên định chủ trương giải quyết các bất đồng về vấn đề biển đảo bằng các biện pháp hoà bình; không sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực, nhưng kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền, các quyền và lợi ích khác của nước ta ở Biển Đông. Tiếp tục củng cố đoàn kết nội khối trong ASEAN, hợp tác cùng Trung Quốc thúc đẩy việc chuẩn bị Bộ Quy tắc ứng xử của các Bên ở Biển Đông (COC) có ràng buộc pháp lý, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Việt Nam tiếp tục thực hiện phát triển kinh tế biển hiệu quả, bền vững gắn với bảo vệ vững chắc bờ cõi quốc gia trên Biển Đông.
PGS. TS. NGUYỄN CHU HỒI
Phó Chủ tịch thường trực Hội Thuỷ sản Việt Nam
Đại biểu Quốc hội khoá XV
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 6 năm 2024