news

Tín chỉ carbon lúa - cuộc cách mạng xanh trên đồng ruộng

Thứ năm, 23/10/2025, 23:03 (GMT+7)
logo Từ canh tác lúa giảm phát thải đến tài chính carbon, tỉnh Quảng Trị đang hình thành hệ sinh thái mới, trong đó lúa gạo trở thành tài sản xanh, đóng góp vào chiến lược tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam.

Lúa là loại cây lương thực quan trọng, vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia vừa đóng góp vào chiến lược tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam. Quảng Trị đang thí điểm dự án tín chỉ carbon trên đồng ruộng, bước đầu đã thu lại kết quả khả quan.

Để hiểu rõ hơn về mô hình này, PV Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Hồng Phương - Phó giám đốc sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị, xung quanh vấn đề thí điểm tín chỉ carbon trên đồng ruộng.

PV: Thưa bà, Quảng Trị đang chuyển dần từ mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực sang phát triển nông nghiệp xanh-tuần hoàn. Tín chỉ carbon tạo ra từ cây lúa không chỉ giúp tăng thu nhập cho người dân, mà còn đóng góp trực tiếp vào chiến lược quốc gia về phát thải ròng bằng 0. Bà có thể chia sẻ cụ thể hơn về chiến lược này?

Bà Nguyễn Hồng Phương: Tỉnh Quảng Trị đang khẩn trương hoàn thiện mô hình tạo tín chỉ cacbon trên cánh đồng để đưa chương trình vào thực hiện trên toàn tỉnh. Ngành nông nghiệp địa phương xác định lúa gạo không chỉ là lương thực, mà là công cụ giảm phát thải quốc gia. 

Trên thực tế, dự án đã ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực, lượng nước tưới giảm trung bình 25-30%, chi phí điện-dầu cho bơm nước giảm tương ứng, cây lúa phát triển tốt và không có dấu hiệu nhiễm bệnh so với đối chứng.

Theo các số liệu đánh giá của dự án tại Quảng Trị, trung bình 1 ha ruộng lúa AWD có thể giảm 3-5 tCO2eq/ha/vụ (tương đương 1,8-2,5 tấn CO2eq/vụ), đồng nghĩa với việc tạo ra lượng tín chỉ carbon quy đổi tương đương. Nếu áp dụng trên quy mô hơn 1.177 ha lúa AWD trong vụ Hè-Thu 2025 tại tỉnh Quảng Trị có thể góp phần cải thiện chính sách hỗ trợ nông nghiệp xanh.

kkkk_1761050322.jpg
Phó Giám đốc sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị Nguyễn Hồng Phương kiểm tra mô hình thí điểm tín chỉ carbon trên đồng ruộng

Theo quy chuẩn quốc tế Gold Standard, mỗi tấn CO2eq giảm phát thải có thể tạo ra 1 tín chỉ carbon được giao dịch. Với giá dao động từ 5 đến 50 USD/tín chỉ tùy thuộc vào chuẩn và khu vực, tiềm năng tăng thu nhập từ lúa giảm phát thải là rất lớn. Từ canh tác đến tài chính carbon, tỉnh Quảng Trị đang hình thành hệ sinh thái mới, trong đó lúa gạo trở thành tài sản xanh, đóng góp vào chiến lược tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam.

Mục tiêu dự án đến năm 2030, Quảng Trị có ít nhất 5.000 ha lúa áp dụng quy trình giám sát phát thải đạt chuẩn quốc tế, với hệ thống thu thập dữ liệu canh tác số hóa… sâu sát đến từng hộ dân. Dù còn không ít khó khăn về hạ tầng số, năng lực địa phương cũng như thể chế tài chính carbon, nhưng Quảng Trị vẫn là một trong những tỉnh đầu tiên kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho phép thí điểm mô hình xác minh tín chỉ carbon trong sản xuất lúa.

PV: Quảng Trị là một trong những địa phương tiên phong áp dụng mô hình lúa giảm phát thải khí nhà kính. Đến nay toàn tỉnh có hơn 2.000 ha, hướng tới chứng nhận quốc tế để tham gia thị trường tín chỉ carbon. Đây là bước đi quan trọng mở ra con đường cho nông nghiệp xanh, bền vững và hội nhập. Bà có thể cho biết những hiệu quả bước đầu của mô hình lúa giảm phát thải khí nhà kính tại Quảng Trị?

Bà Nguyễn Hồng Phương: Vụ đông xuân 2024-2025, tỉnh Quảng Trị đã thí điểm trên 60 ha và tiến hành đánh giá sau khi thu hoạch. Trên cơ sở đó, Sở NN-MT đã báo cáo UBND tỉnh và đề xuất kế hoạch nhân rộng hợp tác với mục tiêu đến năm 2030 có 50% diện tích lúa toàn tỉnh tham gia chương trình, mỗi năm phấn đấu 5.000 - 10.000 ha.

Riêng trong vụ hè thu năm 2025, toàn tỉnh triển khai mô hình lúa giảm phát thải khí nhà kính trên diện tích hơn 2.000 ha tại các xã: Triệu Phong, Triệu Bình, Vĩnh Thủy, Trường Ninh, Ninh Châu và Quảng Ninh. Kết quả bước đầu cho thấy mô hình đã mang lại nhiều lợi ích rõ rệt: tiết kiệm nước, giảm chi phí, hạn chế sâu bệnh, năng suất và chất lượng lúa vẫn được duy trì. Khi áp dụng biện pháp tưới khô xen ướt, lượng khí mê-tan (CH₄) giảm 58,21%-66,87%, tương đương 3,01-3,34 tấn CO₂ không phát ra môi trường/ha. Quan trọng hơn, người nông dân đã thay đổi tư duy, hướng tới lợi ích lâu dài từ thị trường carbon - minh chứng rằng nền nông nghiệp xanh, bền vững hoàn toàn khả thi ở Quảng Trị.

PV: Mỗi tín chỉ tương đương với việc người nông dân đã áp dụng các phương pháp canh tác tiên tiến nhằm làm giảm hoặc hấp thu được một tấn CO₂. Vậy đâu là cơ hội để Quảng Trị tham gia thị trường tín chỉ carbon quốc tế từ chính những cánh đồng lúa của mình?

15_1761050763.jpg
Để thúc đẩy các mô hình này trở thành một phần của hệ thống hỗ trợ sản xuất nông nghiệp carbon thấp, tỉnh Quảng Trị đang xúc tiến việc xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử hóa nhật ký canh tác, mã hóa thửa ruộng, quản lý quy trình theo thời gian thực

Bà Nguyễn Hồng Phương: Theo quy định tại khoản 35, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường 2020: “Tín chỉ carbon là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một tấn khí carbon dioxide (CO₂) hoặc một tấn khí carbon dioxide (CO₂) tương đương”. Tín chỉ carbon như một loại giấy phép có giá trị thương mại, gắn liền với quyền phát thải một lượng khí nhà kính cụ thể. Người nông dân có thể hiểu đơn giản, tín chỉ carbon như một “phiếu thưởng” sẽ nhận được nếu cây lúa có ít khí thải gây ô nhiễm môi trường hơn trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Với hơn 102.000 ha lúa gieo trồng hằng năm, Quảng Trị có tiềm năng rất lớn để tham gia thị trường carbon quốc tế. Nếu tổ chức sản xuất tốt, ứng dụng công nghệ số để giám sát minh bạch, cây lúa Quảng Trị hoàn toàn có thể đạt chứng nhận quốc tế và tham gia thị trường carbon. Đây là cơ hội giúp nông dân tăng thu nhập, cũng như khẳng định vị thế của ngành nông nghiệp địa phương trong xu thế phát triển xanh và hội nhập toàn cầu. Tuy nhiên, hiện thực hóa quy trình giảm phát thải, công nhận tín chỉ carbon và bán được là chặng đường dài, việc này đòi hỏi sự chuẩn bị công phu, hợp tác đồng bộ.

lua.-1_1761050490.jpeg
Ngành nông nghiệp địa phương xác định lúa gạo không chỉ là lương thực, mà là “công cụ giảm phát thải quốc gia”

Thứ nhất, phát thải trong trồng lúa được giảm ở các khâu làm đất, chọn giống lúa, phương pháp canh tác và xử lý rơm rạ sau thu hoạch. Trong đó, canh tác ghi nhận giảm phát thải lớn nhất, tới 33%, nếu dùng phương pháp tưới ngập khô xen kẽ (AWD) và phân bón hiệu quả.

Ở Việt Nam, hai phương pháp trồng lúa có thể áp dụng AWD là 1P5G (1 phải 5 giảm) và SRP (thực hành canh tác lúa bền vững). Hiện canh tác theo phương pháp tưới ngập khô xen kẽ đã chứng minh hiệu quả giảm phát thải và kinh tế đi kèm, nhưng ở quy mô nhỏ.

Tiếp đến, nông dân phải từ bỏ tập quán đốt rơm để giảm 15% phát thải, nhưng đây cũng là thách thức không nhỏ. Tiềm năng tín chỉ carbon ngày càng được nâng cao. Nếu cắt giảm được phát thải khí metan trong trồng lúa, lượng giảm phát thải này có thể được chuyển đổi thành tín chỉ carbon và giao dịch trên thị trường trong nước và quốc tế, mang lại lợi nhuận và nâng cao thu nhập cho người nông dân.

Bên cạnh đó, việc canh tác lúa giảm phát thải carbon không chỉ đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính mà đây còn là cơ hội để nâng cao vị thế, giá trị và thương hiệu lúa gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.

PV: Công nghệ số là chìa khóa để mô hình lúa carbon thấp thành công. Toàn bộ dữ liệu vùng trồng đã được số hóa và quản lý trực tuyến, giúp giám sát minh bạch. Tỉnh Quảng Trị sẽ áp dụng các công nghệ nào vào mô hình lúa giảm phát thải và hướng tới tín chỉ carbon?

Bà Nguyễn Hồng Phương: Trong thời gian tới, có thể ứng dụng thêm các công nghệ như cảm biến đo mực nước ruộng gắn với các van điều tiết nước tự động, thiết bị giám sát phân bón, ảnh vệ tinh, máy bay không người lái (drone) để theo dõi đồng ruộng. Dữ liệu được tổng hợp, phân tích chính xác, đảm bảo tính minh bạch - điều kiện bắt buộc để tín chỉ carbon được quốc tế công nhận. Nhờ công nghệ số, hạt gạo Quảng Trị đang có cơ hội bước thẳng vào thị trường carbon toàn cầu.

Đồng thời, đẩy mạnh sử dụng phân bón hữu cơ, chế phẩm sinh học, giảm hóa chất trong sản xuất; ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến trong canh tác như áp dụng AWD (tưới khô xen ướt) trong canh tác lúa, canh tác nông lâm kết hợp, các mô hình vườn rừng, khuyến cáo nông dân không đốt rơm rạ, thực bì sau thu hoạch. Bên cạnh đó, chuyển giao, tập huấn kỹ thuật để nông dân làm chủ quy trình canh tác thân thiện với môi trường, chuyển giao kỹ năng số cho nông dân. Nâng cao nhận thức và năng lực tiếp cận thị trường carbon cho hợp tác xã, nông dân, để khi Việt Nam hình thành sàn giao dịch carbon thì Quảng Trị có thể chủ động tham gia.

Tín chỉ carbon được hình thành từ chính hoạt động sản xuất của nông dân và hợp tác xã, đây cũng chính là lực lượng hưởng lợi trực tiếp. Khi lợi ích gắn liền với trách nhiệm, nông dân sẽ gắn bó lâu dài, còn thương hiệu “lúa carbon thấp Quảng Trị” sẽ có chỗ đứng bền vững không chỉ thị trường trong nước mà còn vươn ra quốc tế.

Để thúc đẩy các mô hình này trở thành một phần của hệ thống hỗ trợ sản xuất nông nghiệp carbon thấp, tỉnh Quảng Trị đang xúc tiến việc xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử hóa nhật ký canh tác, mã hóa thửa ruộng, quản lý quy trình theo thời gian thực.

PV: Thời gian tới, Quảng Trị đang chuyển từ mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực sang phát triển nông nghiệp xanh-tuần hoàn. Tín chỉ carbon tạo ra từ cây lúa không chỉ giúp tăng thu nhập cho người dân, mà còn đóng góp trực tiếp vào chiến lược quốc gia về phát thải ròng bằng 0. Kế hoạch sắp tới của tỉnh Quảng Trị để nhân rộng hơn mô hình “cánh đồng lúa giảm phát thải” là gì, thưa bà?

z7146102562916_efac6af0acc58d979ebe507140145432_1761205018.jpg
Bà Nguyễn Thị Hồng Phương, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị

Bà Nguyễn Thị Hồng Phương: Thời gian qua, tỉnh đã triển khai thí điểm mô hình lúa giảm phát thải tại một số địa phương trọng điểm. Kết quả cho thấy, việc áp dụng quy trình tưới ướt – khô xen kẽ, sử dụng phân bón hợp lý và tăng cường phân hữu cơ đã giúp giảm 50–60% lượng khí mê-tan phát thải, tiết kiệm chi phí nước tưới, trong khi năng suất và chất lượng lúa vẫn được đảm bảo. Đây là cơ sở quan trọng để tỉnh mở rộng mô hình trong những năm tới.

Quảng Trị đang là một trong những địa phương tiên phong của cả nước trong việc áp dụng mô hình lúa giảm phát thải khí nhà kính. Từ những cánh đồng đầu tiên ở xã Vĩnh Lâm cũ (nay là xã Vĩnh Thủy) và xã Xuân Ninh cũ (nay là xã Trường Ninh) với gần 60 ha, đến nay đã có hàng loạt HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Trị tham gia. Vụ Hè Thu 2025, diện tích lúa giảm phát thải đạt hơn 2.000 ha và dự kiến tiếp tục mở rộng trong vụ Đông Xuân 2025-2026.

Quy trình ứng dụng tín chỉ carbon trên đồng ruộng thực tế không quá phức tạp, chỉ thay đổi một số tập quán canh tác truyền thống của người dân. Để áp dụng được biện pháp này cũng cần có hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh, chủ động tưới tiêu; mặt ruộng tương đối bằng phẳng.

Về mặt quy trình, bà con nông dân cần phải áp dụng đúng biện pháp kỹ thuật, trong đó chú trọng đến các biện pháp để hạn chế quá trình phát thải khí mê-tan như: tưới nước ngập khô xen kẽ, sử dụng phân bón hợp lý, đặc biệt là phân đạm, sử dụng các loại giống ngắn ngày và đặc biệt là tuyệt đối không đốt rơm rạ trên đồng ruộng.

Kết quả bước đầu cho thấy, mô hình đã mang lại nhiều lợi ích rõ rệt như tiết kiệm nước, giảm chi phí, hạn chế sâu bệnh, năng suất và chất lượng lúa vẫn được duy trì. Quan trọng hơn, bà con đã thay đổi tư duy, hướng tới lợi ích lâu dài từ thị trường carbon - minh chứng rằng nền nông nghiệp xanh, bền vững hoàn toàn khả thi.

pp_1761050576.jpg
Cây lúa được chọn là ngành đầu tiên cho hành trình định danh tín chỉ carbon trong nông nghiệp Việt Nam, bởi ngoài vai trò về an ninh lương thực, cây lúa còn gắn liền với văn hóa, sinh kế của hàng triệu hộ gia đình

PV:  Xin cảm ơn bà!

"Trồng lúa giảm phát thải, bán tín chỉ carbon là hướng đi đúng đắn của ngành nông nghiệp. Bằng việc tuân thủ đúng các biện pháp kỹ thuật, thực hiện tạo tín chỉ carbon trong sản xuất lúa, nông dân vừa có cơ hội nâng cao thu nhập qua việc bán tín chỉ carbon vừa góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu, cũng như nâng cao vị thế của gạo Việt Nam trên thị trường."

Đinh Loan