news

Vì một vùng biển xanh, hòa bình và thịnh vượng

Thứ năm, 18/12/2025, 10:02 (GMT+7)
logo Ngày 17/12/2025, tại tỉnh Quảng Trị, Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị đã tổ chức Diễn đàn “Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên biển và hải đảo Việt Nam”. Sự kiện thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và đại diện các địa phương ven biển.

Tại Diễn đàn, PGS, TS. Nguyễn Chu Hồi – Đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Thủy sản Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã có bài tham luận với chủ đề “Tổng quan về biển và hải đảo Việt Nam” cung cấp cái nhìn toàn diện về tiềm năng, giá trị cũng như những thách thức đặt ra trong công tác khai thác và sử dụng tài nguyên biển hiện nay.

dien-dan_1765946438.webp
PGS, TS. Nguyễn Chu Hồi – Đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Thủy sản Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam tại Diễn đàn “Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên biển và hải đảo Việt Nam”

Biển Đông và vị thế của biển Việt Nam

Biển và hải đảo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của Biển Đông, không gian biển đặc biệt có ý nghĩa toàn cầu cả về tự nhiên, kinh tế, môi trường... Việc nhận diện đầy đủ giá trị, tính liên kết và những rủi ro môi trường của khu vực này là cơ sở quan trọng cho định hướng khai thác, sử dụng hợp lý và phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.

Biển Đông là một trong 64 biển trên thế giới, đồng thời là 1 trong 4 biển lớn nhất, với diện tích khoảng 3,5 triệu km². Biển Đông được bao quanh bởi 10 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam, với tổng dân số khu vực lên tới khoảng 2 tỷ người, bao gồm nhiều nền kinh tế phát triển năng động hàng đầu thế giới.

Biển Việt Nam là một bộ phận không tách rời của Biển Đông, có diện tích rộng gấp khoảng 3 lần lãnh thổ đất liền, chiếm khoảng 29% diện tích Biển Đông. Không gian biển Việt Nam bao gồm đầy đủ các vùng biển theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) trong phạm vi 200 hải lý, thềm lục địa cùng với hai quần đảo ngoài khơi có vị trí chiến lược là Hoàng Sa và Trường Sa.

Biển Đông là tuyến đường giao thông hàng hải huyết mạch, kết nối Bắc Mỹ, Đông Á, Thái Bình Dương với Nam Á, châu Âu, châu Phi và khu vực Trung, Cận Đông. Đây là tuyến hàng hải nhộn nhịp thứ hai trên thế giới, với trung bình khoảng 300 lượt tàu/ngày, trong đó có tới 200 tàu chở dầu.

dien-dan9_1765953317.webp
Tổng quan về Biển Đông và hải đảo (Ảnh minh họa)

Mật độ giao thông cao khiến Biển Đông trở thành khu vực chịu nhiều rủi ro môi trường, đặc biệt là các sự cố tràn dầu, ô nhiễm dầu không rõ nguồn gốc và ô nhiễm lan truyền từ đất liền ra biển. Những rủi ro này không chỉ gây tổn hại nghiêm trọng đến môi trường biển mà còn tác động trực tiếp đến sinh kế và an ninh môi trường của các quốc gia ven biển.

Biển Đông có cấu trúc địa hình đa dạng với các dạng địa hình lớn, bao gồm: vùng bờ, thềm lục địa đến độ sâu khoảng 200m, sườn lục địa và bồn trũng nước sâu kiểu đại dương, là khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên.

Độ sâu trung bình của Biển Đông là khoảng 1.114m, trong khi các bồn trũng nước sâu có độ sâu trung bình khoảng 2.500m; nơi sâu nhất là hẻm vực Manila, đạt tới 5.340m. Khu vực bồn trũng nước sâu này có 5 hệ thống “ốc đảo san hô” chính, phát triển kế thừa trên nền các núi lửa cổ hình thành cách đây khoảng 240 triệu năm. Ngoài ra, các rạn san hô còn phân bố rộng khắp ven các đảo và dọc theo bờ biển trong vùng biển thềm lục địa.

Không gian Biển Đông là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm không gian trên không, mặt biển, khối nước biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tạo nên một hệ thống tự nhiên đa chiều và có tính liên kết chặt chẽ.

Biển Đông còn là khu vực có hệ dòng chảy bề mặt phức tạp, mạnh và biến đổi theo chế độ gió mùa Đông Bắc và Tây Nam, tạo ra các vùng hội tụ và phân kỳ ở khu vực trung tâm biển. Cùng với sóng lớn và thủy triều, hệ thủy động lực này đóng vai trò quyết định trong việc hình thành liên kết sinh thái xuyên biên giới.

Các dòng chảy chi phối hướng di cư, phân bố của các loài sinh vật biển, đặc biệt là các loài thủy sản kinh tế; đồng thời tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các hệ sinh thái biển và ven biển. Đây cũng là nhân tố quyết định hướng lan truyền dầu tràn và các chất ô nhiễm khi xảy ra sự cố trên biển hoặc từ đất liền, điển hình như các sự cố ô nhiễm môi trường lớn trong thời gian qua.

Về mặt sinh học, Biển Đông là nơi diễn ra các liên kết tiến hóa quan trọng của sinh vật biển. Đặc biệt, nhóm đảo san hô Trường Sa được xem là một nguồn cung cấp ấu trùng sinh vật biển quan trọng cho toàn bộ Biển Đông, tạo nên sự liên kết mạnh mẽ giữa các hệ sinh thái rạn san hô ngoài khơi và ven bờ, kể cả với vùng biển Philippines lân cận.

Biển Việt Nam đa dạng hệ sinh thái, có giá trị kinh tế

Biển Đông nằm trong khu vực có đa dạng san hô cao bậc nhất thế giới, tiếp giáp với “Tam giác san hô” toàn cầu (Philippines – Indonesia), đồng thời sở hữu một “Tiểu tam giác san hô Trường Sa”. Các hệ sinh thái rạn san hô đóng vai trò then chốt trong việc duy trì đa dạng sinh học biển, phát triển nghề cá và bảo đảm tính bền vững của Biển Đông cũng như kinh tế biển xanh của các quốc gia trong khu vực.

Sự suy thoái hoặc mất đi các hệ sinh thái rạn san hô đồng nghĩa với suy giảm nguồn lợi thủy sản, mất nghề cá truyền thống và đe dọa an ninh sinh kế. Nếu điều này xảy ra trên diện rộng, biển Việt Nam có nguy cơ trở thành một “thủy mạc” vùng biển nghèo nàn, không còn tôm cá.

Lượng giá các hệ sinh thái biển cho thấy giá trị to lớn mà biển Việt Nam đang sở hữu. Tổng giá trị các sản phẩm và dịch vụ hệ sinh thái của rạn san hô Việt Nam ước đạt khoảng 100 triệu USD mỗi năm. Đối với rừng ngập mặn 1 km² có thể cung cấp khoảng 450 kg hải sản khai thác.

dien-dan3_1765946458.webp
Biển Việt Nam đa dạng hệ sinh thái, có giá trị kinh tế

Thảm cỏ biển mang lại giá trị thủy sản và dịch vụ hệ sinh thái ước trên 20 triệu USD, đồng thời có vai trò quan trọng trong cân bằng khí hậu. Mỗi mét vuông cỏ biển có thể tạo ra 10 lít ôxy hòa tan, góp phần hấp thụ CO₂ và giảm hiệu ứng nhà kính. Mỗi acre (khoảng 0,44 ha) cỏ biển tạo ra 10 tấn sinh khối lá/năm, cung cấp thức ăn, sinh cảnh và nơi sinh sản cho nhiều loài sinh vật biển. Đầm phá ven biển, có tổng giá trị trên 2.000 USD/ha, riêng dịch vụ lặn biển có thể mang lại khoảng 400.000 USD mỗi năm.

Ngoài tài nguyên sinh học, biển Việt Nam còn giàu tiềm năng tài nguyên dưới đáy biển như dầu khí, băng cháy (hydrate khí), kết hạch đa kim, photphorit, địa nhiệt, nước biển và các dạng năng lượng biển (gió, sóng, thủy triều). Đây là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế biển trong tương lai, song đòi hỏi phải được khai thác thận trọng, gắn với bảo vệ môi trường và an ninh sinh thái.

Biển và hải đảo Việt Nam là không gian phát triển chiến lược, giàu tài nguyên, có tính liên kết xuyên biên giới cao nhưng cũng rất nhạy cảm trước các tác động của con người và biến đổi khí hậu. Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên biển không chỉ là yêu cầu phát triển kinh tế, mà còn là trách nhiệm bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và gìn giữ tương lai bền vững cho đất nước và khu vực.

Thách thức môi trường xuyên biên giới trên Biển Đông

Với 21 tỉnh thành có biển và đường bờ biển dài 3.260 km, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng vai trò đặc biệt quan trọng của biển, đảo trong chiến lược phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm này được thể chế hóa trong nhiều nghị quyết quan trọng, như Nghị quyết số 09-NQ/TW, Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 và được khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng.

Tuy nhiên, các vấn đề môi trường biển Việt Nam không thể tách rời các vấn đề môi trường của Biển Đông, bởi đây là chỉnh thể tự nhiên thống nhất, nơi mọi tác động đều có thể lan truyền xuyên biên giới.

dien_1765953545.webp
Tàu đắm, tràn dầu, đổ thải bất hợp pháp,… là những nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường biển

Hiện nay, Biển Đông tồn tại 7 hệ thống đảo san hô quan trọng, không chỉ về mặt sinh học và sinh thái mà còn về vị trí chiến lược đối với toàn vùng biển. Tuy nhiên, tất cả đều đang chịu tác động mạnh mẽ từ hoạt động của con người.

Các rạn san hô, cùng các hệ sinh thái biển khác như thảm cỏ biển, rừng ngập mặn ven biển, được xem là "nguồn vốn tự nhiên" của biển, là nền tảng sinh kế của cộng đồng ven biển và cư dân trên các đảo, đồng thời là đầu vào cho nghề cá và du lịch biển, ven biển bền vững.

Biển Đông là một trong năm khu vực đánh bắt cá tự nhiên năng suất cao nhất thế giới, với khoảng 1,72 triệu tàu cá, đóng góp 14% tổng sản lượng khai thác cá toàn cầu (79–86 triệu tấn). Giá trị kinh tế của một héc-ta rạn san hô khoảng 350.000 USD/năm, cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng cả về kinh tế và sinh thái của hệ sinh thái này.

Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và biến đổi đại dương ngày càng gia tăng, Biển Đông nói chung và vùng biển Việt Nam nói riêng đang chịu những tác động dài hạn và rõ nét. Mực nước biển trung bình tại Biển Đông đang dâng 4,05 ± 0,6 mm/năm, cao hơn mức trung bình toàn cầu (3,25 ± 0,08 mm/năm).

Cùng với đó, axit hóa đại dương và suy giảm khả năng chống chịu của các hệ sinh thái biển đang trở thành vấn đề cấp bách. Các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng, mùa vụ dịch chuyển, bão xuất hiện dày hơn, mạnh hơn và dịch chuyển về phía Nam, trong khi hệ thống dòng chảy biển đang thay đổi, ảnh hưởng trực tiếp tới thủy sản và môi trường biển.

dien-dan7_1765946923.webp
Rác thải chất chồng trong rừng cây ngập mặn

Những biến đổi của môi trường biển đang cho thấy ô nhiễm biển ngày một nghiêm trọng. Biển Việt Nam và Biển Đông đang tiếp tục bị “đầu độc” bởi các chất gây ô nhiễm, trong đó khoảng 70% đến từ đất liền, 28% từ các hoạt động trên biển, phần còn lại từ khí quyển và các nguồn khác. Việt Nam đứng thứ tư thế giới về lượng rác thải biển, chỉ sau Trung Quốc, Indonesia và Philippines. Rác thải nhựa, sự cố tràn dầu, thủy triều đỏ, tảo độc ngày càng gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và sức khỏe cộng đồng ven biển.

Trước thực trạng ô nhiễm gia tăng, nguy cơ giảm đa dạng sinh học và đổ vỡ nghề cá đang được cảnh báo. Các dự báo cho thấy, đến năm 2030, đa dạng sinh học cấp loài, các hệ sinh thái biển và các môi trường sống sẽ ngày càng khan hiếm. Từ năm 1960, nguồn lợi thủy sản Biển Đông đã suy giảm rõ rệt, khoảng 80% rạn san hô bị đe dọa, các hệ sinh thái ven bờ cũng tương tự. Vùng biển ven bờ bị khai thác quá mức từ đầu những năm 2000, nghề cá truyền thống có nguy cơ “đổ vỡ”.

Riêng trữ lượng cá ở vùng biển phía Tây Biển Đông và Trường Sa đã giảm khoảng 16% so với trước 2010. Biển ít cá, áp lực sinh kế gia tăng đã dẫn đến tình trạng đánh bắt trái phép, làm gia tăng nguy cơ vi phạm các tiêu chuẩn khai thác IUU.

Những thách thức nêu trên đang làm suy giảm nghiêm trọng "vốn tự nhiên" của biển, thể hiện qua: Suy giảm diện tích các hệ sinh thái biển – ven biển; giảm trữ lượng nguồn lợi thủy sản; suy giảm đa dạng sinh học; hiệu quả quản lý các khu bảo tồn biển hạn chế; tăng nguy cơ mất an ninh môi trường biển.

Nguyên nhân chủ yếu là tác động của con người, gồm khai thác quá mức, hủy diệt môi trường, gia tăng chất thải, nhận chìm vật chất, rác thải nhựa, sự cố tràn dầu, hiện tượng thủy triều đỏ, cùng với các yếu tố xã hội như nghèo đói và nhận thức về bảo vệ môi trường biển còn hạn chế.

dien-dan5_1765946472.webp
Biến đổi khí hậu đang đẩy nhanh quá trình xói mòn bờ biển

Trong bài tham luận, PGS, TS. Nguyễn Chu Hồi nhấn mạnh bảo vệ môi trường biển, bảo tồn tài nguyên biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo không phải là các vấn đề tách rời, mà là ba mặt của cùng một vấn đề. Phát triển kinh tế nếu không bền vững sẽ làm suy yếu môi trường và gián tiếp đe dọa an ninh, chủ quyền; ngược lại, môi trường suy thoái sẽ làm xói mòn nền tảng phát triển kinh tế và sinh kế.

Trước thực trạng đó, PGS, TS. Nguyễn Chu Hồi đã nêu ra một số yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, cần phát triển kinh tế biển hiệu quả, bền vững, dựa trên nền tảng kinh tế biển xanh và kinh tế tuần hoàn; bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và biến đổi đại dương. Đồng thời, tăng cường quản lý, giám sát, nâng cao nhận thức cộng đồng và hợp tác khu vực để bảo vệ các hệ sinh thái biển quan trọng.

Trong bối cảnh tình hình trên Biển Đông còn nhiều diễn biến khó lường, việc giữ vững chủ quyền, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững biển Việt Nam không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là chiến lược lâu dài. Chỉ khi gìn giữ và phát huy hiệu quả "vốn tự nhiên" của biển, Việt Nam mới có thể xây dựng nền kinh tế biển vững mạnh, góp phần bảo đảm an ninh, thịnh vượng và nâng cao vị thế quốc gia trên không gian biển.

Bùi Ánh