Viện Khoa học KTTV&BĐKH: Đề xuất nghiên cứu chương trình IHP phục vụ triển khai Luật Tài nguyên nước

Thứ sáu, 5/1/2024, 15:52 (GMT+7)
logo Thúc đẩy nghiên cứu trong Chương trình thủy văn liên chính phủ (IHP) phục vụ triển khai Luật Tài nguyên nước là một trong những ưu tiên được Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu chia sẻ đến các nhà khoa học nhằm nghiên cứu những phương án, đề xuất triển khai thực hiện Luật. Tạp chí Tài nguyên và Môi trường đã ghi lại những ý kiến đóng góp của các chuyên gia về về đề xuất nghiên cứu trong thời gian tới.

PGS. TS. Phạm Thị Thanh Ngà - Viện trưởng Viện Khoa học KTTV&BĐKH: Đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho các hoạt động phát triển KT-XH, QP-AN, môi trường và giảm thiểu rủi ro, tác hại từ các thảm họa do con người và thiên nhiên gây ra liên quan đến nước đã được thể hiện xuyên suốt trong Luật Tài nguyên nước (TNN).

Luật TNN năm 2023 đã bổ sung quy định tại Điều 26, trong đó, quy định việc kiểm soát các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt. Ngoài ra, các quy hoạch có nội dung khai thác, sử dụng TNN; kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt; kế hoạch, chương trình, dự án phát triển KT-XH, QP-AN phải gắn với khả năng, chức năng nguồn nước, bảo vệ TNN, bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu, không vượt quá ngưỡng khai thác nước dưới đất. Đẩy mạnh xây dựng nền tảng công nghệ số trong việc hỗ trợ các cơ quan quản lý trong quá trình quyết định điều hòa, phân phối TNN, vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, đặc biệt, khi xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước trên các LVS cũng được đặc biệt nhấn mạnh trong Luật TNN năm 2023.

Viện Khoa học KTTV&BĐKH là một trong những đơn vị nghiên cứu đi đầu về khí tượng, thủy văn, môi trường và BĐKH tại Việt Nam và được giao làm cơ quan đầu mối quốc gia của Chương trình IHP tại Việt Nam. UNESCO cũng đã xây dựng chương trình thủy văn liên chính phủ lần thứ 9, trong đó, xác định các chương trình ưu tiên tại Việt Nam. Với vai trò là đơn vị nghiên cứu nòng cốt của Bộ TN&MT về các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến các nội dung của Luật TNN, hy vọng đây là cơ hội để các nhà khoa học chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi, truyền tải, phát triển các định hướng nghiên cứu trong thời gian tới để đảm bảo gắn kết các chương trình của IHP với việc triển khai Luật TNN.

Đề xuất nghiên cứu chương trình IHP phục vụ triển khai Luật Tài nguyên nước

Hướng đến một thế giới sử dụng nguồn nước an toàn

TS. Đặng Quang Thịnh - Trung tâm Nghiên cứu BĐKH, Viện Khoa học KTTV&BĐKH: Luật TNN năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024 và sẽ thay thế cho Luật TNN năm 2012. Mục đích ban hành Luật TNN 2023 nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý TNN và hướng tới quản lý TNN trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước; giảm điều kiện kinh doanh cho tổ chức, cá nhân. Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các chính sách về: giá nước, thuế, phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác TNN; đẩy mạnh xã hội hóa.

Trong đó, một số điểm liên quan đến BĐKH của Luật TNN năm 2023:

Chương II, Điều 11. Chiến lược TNN quốc gia: Việc xây dựng Chiến lược TNN quốc gia phải căn cứ vào kết quả điều tra cơ bản, dự báo nguồn nước, tác độngcủa BĐKH đến TNN.

Điều 13. Căn cứ lập quy hoạch tổng hợp LVS liên tỉnh; Khoản 2. Điều kiện tự nhiên, KT-XH của từng địa phương trên LVS, từng vùng, điều kiện cụ thể của từng LVS, khả năng đáp ứng của nguồn nước và dự báo tác động của BĐKH đến TNN.

Chương IV, Điều 35. Điều hòa, phân phối TNN. Khoản 1. Việc điều hòa, phân phối TNN cho các mục đích khai thác, sử dụng TNN phải căn cứ vào quy hoạch về TNN, kịch bản nguồn nước, hiện trạng, nhu cầu và hạn ngạch khai thác TNN có tính đến tác động của biến đổi khí hậu, kết quả hạch toán TNN.

Điều 50. Đập, hồ chứa và việc khai thác, sử dụng nước liên quan đến đập, hồ chứa. Khoản 9. Nhà nước đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân xây dựng công trình, hồ chứa nhằm bảo vệ, kiểm soát, cải tạo, phục hồi, phát triển nguồn nước, cấp, trữ nước, bổ cập nước dưới đất, chuyển nước cho vùng khan hiếm nước, các đảo có dân sinh sống, vùng bị ảnh hưởng lớn do BĐKH, bảo đảm chủ động trữ nước ngọt, điều hoà, phân phối TNN nội tỉnh, liên tỉnh.

Định hướng triển khai trong thời gian tới là đánh giá nguy cơ, thách thức, tác động và rủi ro an ninh nguồn nước; xây dựng kịch bản nguồn nước phục vụ điều hòa, phân phối TNN; đánh giá tác động của BĐKH đến TNN phục vụ khai thác, sử dụng TNN, lập quy hoạch LVS liên tỉnh.

TS. Trần Thanh Thủy - Phòng Khoa học, Đào tạo và Hợp tác quốc tế, Viện Khoa học KTTV&BĐKH: Chương trình IHP của UNESCO được thành lập năm 1975, là một chương trình dài hạn được thực hiện trong các giai đoạn 8 năm liên tiếp và tập trung vào giải quyết các thách thức về nước ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu. Đồng thời, hỗ trợ các quốc gia thành viên đẩy nhanh việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững liên quan đến nước và các chương trình nghị sự khác thông qua khoa học và giáo dục đến năm 2029.

Chương trình IHP với tầm nhìn hướng đến một thế giới sử dụng nguồn nước an toàn và là nơi người dân cũng như các tổ chức có đủ năng lực, kiến thức để đưa ra quyết định quản lý nước dựa trên cơ sở khoa học nhằm đạt sự phát triển bền vững và xây dựng xã hội, thông qua các lĩnh vực nghiên cứu, giáo dục, dữ liệu, quản lý tổng hợp Tài nguyên nước và quản trị. Theo đó, các chương trình nghiên cứu ưu tiên tại Việt Nam bao gồm thúc đẩy, phát triển và áp dụng các công cụ, cách tiếp cận có cơ sở khoa học để quản lý nước bền vững, quản lý rủi ro thiên tai, giải quyết các thách thức về an ninh nước; tăng cường quản trị nước để giảm nhẹ, thích ứng và chống chịu; tiến hành nghiên cứu thuỷ văn sinh thái, đánh giá tác động của các giải pháp dựa vào tự nhiên và chu trình nước.

Để tăng cường năng lực thể chế và con người trong chính sách và quản lý nước ngọt cũng như năng lực của các chuyên gia và kỹ thuật viên lành nghề trong giáo dục đại học và dạy nghề liên quan đến nước, cần xác định những lỗ hổng chính sách trong quản lý nước bền vững, từ đó, cung cấp các công cụ thích hợp giải quyết những lỗ hổng trên. Đặc biệt chú trọng vào quản trị TNN, vì đây là một hệ thống kiểm soát việc ra quyết định, có vai trò cốt lõi ảnh hưởng đến phát triển bền vững tài nguyên nước. Bên cạnh đó, các chương trình nghiên cứu cũng hướng đến nâng cao nhận thức thông qua các hệ thống giáo dục, thúc đẩy văn hoá mới về nước cho đông đảo các chuyên gia về nước và cộng đồng các nhà khoa học, trong đó có cả thanh niên và những người ra quyết định ở các lĩnh vực khác nhau trong việc quản lý TNN.

Ở châu Á, mô hình quản trị TNN của Nhật Bản và Hàn Quốc được đánh giá là tương đối phù hợp với Việt Nam. Theo hình thức quản lý nước thông thường, chủ thể quản lý đưa ra các quy định quản lý với hướng tiếp cận từ trên xuống; đối với quản trị thì các quyết định được ban hành theo hướng tiếp cận dựa trên nhu cầu từ dưới lên, kết hợp thực tiễn từ các nhóm địa phương hoặc theo lưu vực sông để từ đó ban hành thể chế áp dụng tương ứng, phù hợp, áp dụng cho quản lý lưu vực sông Hồng - Thái Bình.

Phương Chi (thực hiện)