 
                     Xã hội hóa là chủ trương, chính sách lớn, có ý nghĩa quan trọng của Đảng và Nhà nước, không chỉ trước mắt mà là lâu dài, nhằm huy động mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội chung tay bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học.
                                                                                Xã hội hóa là chủ trương, chính sách lớn, có ý nghĩa quan trọng của Đảng và Nhà nước, không chỉ trước mắt mà là lâu dài, nhằm huy động mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội chung tay bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học.
                                    
Ảnh minh họa
Xã hội hóa trong bảo vệ môi trường
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường 2016 - 2020, vấn đề môi trường Việt Nam đã được cải thiện tốt hơn, hệ thống chính sách, luật pháp về BVMT đã cơ bản được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu công tác BVMT và hội nhập quốc tế; nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng, doanh nghiệp đầu tư vào các công trình, hệ thống thu gom, xử lý chất thải, hoặc đầu tư sản xuất sản phẩm ít chất thải, có khả năng tái chế, tái sử dụng, thân thiện với môi trường.
Đã có nhiều mô hình, hoạt động XHH trong bảo vệ môi trường đạt kết quả tốt như: Mô hình “Câu lạc bộ môi trường” của Hội Cựu chiến binh; mô hình “Phân loại rác tại nguồn, đổi rác tái chế lấy quà” của Hội Phụ nữ; mô hình “Cánh đồng không bao bì thuốc bảo vệ thực vật” của Hội nông dân; mô hình “Toàn dân chung tay BVMT trong xây dựng nông thôn mới” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; mô hình “ Thanh niên tình nguyện giải tỏa các tụ điểm nóng về rác thải” của Đoàn thanh niên; mô hình trường học, bệnh viện, nhà máy xanh, sạch, đẹp. Hầu hết các tổ chức chính trị - xã hội đều có công trình, tuyến đường tự quản về BVMT sáng, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn giao thông và có nhiều hoạt động tham vấn, phản biện, giám sát, phát hiện các hành vi gây ONMT, thông báo cho cơ quan chức năng ngăn chặn kịp thời. Hiện nay, xuất hiện ngày càng nhiều mô hình Hợp tác xã, tổ, đội thu gom xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở khu vực nông thôn hoạt động hiệu quả, tự đầu tư trang thiết bị, phương tiện thu gom, lò đốt chất thải, tự quản lý vận hành hoạt động bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tự hạch toán thu chi, chăm lo đời sống cho người lao động, mục đích là giữ cho môi trường xanh, sạch, đẹp.
Nhiều doanh nghiệp tham gia XHH thông qua việc chủ động đầu tư thay đổi dây chuyền, công nghệ sản xuất giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu, năng lượng, giảm chất thải, phát thải khí nhà kính, đầu tư hệ thống thu gom, xử lý nước thải, khí thải, bụi, tiếng ồn, kéo dài vòng đời sản phẩm, thực hiện kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người lao động về ý thức BVMT, xây dựng nhà máy, xí nghiệp xanh, sạch, đẹp.
Xã hội hóa trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học
Việt Nam là nước có giá trị ĐDSH cao trên thế giới, đã tham gia và thực hiện tốt các Công ước, Cam kết quốc tế liên quan đến bảo tồn ĐDSH. Việt Nam đã xây dựng hệ thống chính sách, luật pháp khá đầy đủ, chặt chẽ góp phần bảo vệ TNTN, bảo tồn ĐDSH. Đã tổ chức nhiều hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng, doanh nghiệp về bảo vệ TNTN và bảo tồn ĐDSH. Đã có nhiều hoạt động quản lý, bảo vệ, ngăn chặn kịp thời các hoạt động gây làm suy thoái ĐDSH, mất đi các loài, gen quý hiếm cần được bảo vệ.
Để bảo vệ hệ sinh thái, bảo tồn ĐDSH cần đẩy mạnh hoạt động XHH, xác định cộng đồng là chủ thể trực tiếp tham gia bảo vệ rừng, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên, bảo tồn các loài động, thực vật quý hiếm, cộng đồng tham gia quản lý, giám sát, phát hiện, thông tin kịp thời cho cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn kịp thời hoạt động chặt phá rừng, săn bắt, nuôi nhốt, buôn bán động vật hoang dã quý hiếm. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân, cộng đồng tham gia bảo vệ rừng, chuyển đổi sản xuất sản phẩm từ gỗ rừng tự nhiên sang gỗ rừng trồng và nguồn gỗ thay thế khác.
Xã hội hóa trong ứng phó, thích ứng, giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu
Việt Nam là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của BĐKH. Theo thống kê của Tổng cục Phòng, chống thiên tai năm 2022 cả nước ghi nhận hơn 1.000 trận thiên tai, với 21 loại hình thiên tai. Thiên tai xảy ra bất thường, cực đoan, trái quy luật ở nhiều vùng miền của cả nước, làm chết, mất tích 175 người, thiệt hại về kinh tế ước tính 19.500 tỷ đồng. Hiện nay do thời tiết cực đoan làm cho các hồ thủy điện bị cạn kiệt không thể phát điện đã gây thiếu điện cho sản xuất, sinh hoạt của người dân, thiệt hại rất lớn cho sản xuất, ảnh hưởng đến đời sống dân sinh, an ninh năng lượng.
Để ứng phó và thích ứng với BĐKH cộng đồng đã có nhiều giải pháp như chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với biến động của thời tiết, khí hậu, triều cường, xâm nhập mặn, khô hạn, lũ lụt, chủ động đầu tư xây dựng các công trình nhà ở, chuồng trại chăn nuôi, nước sạch, vệ sinh môi trường thích ứng với thời tiết cực đoan do BĐKH. Người dân đã nhận thức được nguyên nhân gây ra gia tăng BĐKH, các tác động của BĐKH tới môi trường sống từ đó mỗi người, mỗi nhà đều ý thức được việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, không sử dụng nguồn năng lượng hóa thạch vào sản xuất, sinh hoạt, không đốt rơm rạ sau thu hoạch, không chặt phá rừng, tích cực tham gia trồng rừng, bảo vệ rừng.
Với doanh nghiệp, BĐKH đã tác động đến sản xuất, kinh doanh làm giảm doanh thu, nhất là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, chế biến. Doanh nghiệp đã chủ động ứng phó, thích ứng, giảm nhẹ tác động của BĐKH, thay đổi sử dụng nguồn năng lượng hóa thạch sang sử dụng nguồn điện tái tạo, tham gia kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải, tái sử dụng phế liệu, sản phẩm thải bỏ, kéo dài vòng đời sản phẩm, thu gom, xử lý bao bì sản phẩm thải bỏ đúng quy định. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư dự án sản xuất điện gió, điện mặt trời góp phần vào giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với BĐKH.
Giải pháp xã hội hóa bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học
Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục, vận động mọi tầng lớp tham gia XHH. Quán triệt nhất quán chủ trương của Đảng là “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”. Muốn vậy, phải đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức, cung cấp kiến thức, phổ biến chính sách, luật pháp về BVMT, ứng phó với BĐKH, bảo tồn ĐDSH cho cộng đồng, doanh nghiệp để nâng cao nhận thức, hiểu biết và chủ động, tự giác tham gia XHH BVMT, ứng phó với BĐKH, bảo tồn ĐDSH. Cần đa dạng hóa nội dung, phương thức truyền thông, hỗ trợ thông tin, tài liệu; tuyên truyền các mô hình, điển hình tiên tiến tham gia XHH.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp liên quan đến XHH. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp liên quan đến hoạt động XHH nguồn lực cho BVMT, ứng phó với BĐKH, bảo tồn ĐDSH, bảo đảm đồng bộ, công khai, minh bạch; làm rõ quyền, lợi ích và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia XHH; ban hành kịp thời các quy định về sử dụng nguồn lực XHH; thống nhất cách hiểu, cách làm, cách huy động, vận động XHH, tránh mỗi người hiểu một kiểu dẫn đến làm sai, lợi dụng XHH để tham ô, lãng phí, tham nhũng vi phạm pháp luật.
Thứ ba, đẩy mạnh XHH nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích hoạt động XHH trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ nhằm tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, năng lượng, giảm chất thải, phát thải khí nhà kính; phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ môi trường sản xuất các trang thiết bị, máy móc quan trắc, giám sát, xử lý chất thải rắn, lỏng, khí, tái chế chất thải, sản xuất các sản phẩm, hàng hóa thân thiện với môi trường, bao bì tự phân hủy, thay thế sản phẩm khó phân hủy, kéo dài vòng đời sản phẩm, hoạt động thu hồi tái chế sản phẩm, bao bì thải bỏ, tiến tới hạn chế nhập khẩu trang thiết bị, dụng cụ của nước ngoài, sử dụng sản phẩm trong nước giá thành hạ, chất lượng tốt, dễ vận hành sử dụng, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Thứ tư, tổ chức thực hiện các hoạt động XHH nguồn lực. Cần phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước các cấp và của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp tham gia XHH. Nhà nước có trách nhiệm ban hành cơ chế chính sách, hướng dẫn, kiển tra, giám sát, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, thẩm định công nghệ, hỗ trợ pháp lý, tuyên truyền, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp trong hoạt động XHH BVMT, ứng phó với BĐKH, bảo tồn ĐDSH. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp phải chủ động tham gia XHH, nghiên cứu, đề xuất, đầu tư, tổ chức triển khai các hoạt động XHH về BVMT, ứng phó với BĐKH, bảo tồn ĐDSH theo khả năng và chức năng nhiệm vụ của mình.
NGUYỄN VĂN PHẤN
Giám đốc Trung tâm Giáo dục và Truyền thông môi trường
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10 năm 2023)