
Tham dự Hội thảo có đại diện của Bộ TN&MT, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam; đại diện Tổng cục Môi trường, các Sở TN&MT, Sở NN&PTNT; các công ty môi trường đô thị, môi trường công ích, khu liên hợp xử lý chất thải rắn, hợp tác xã dịch vụ môi trường; đại diện các địa phương, cơ quan quản lý, các nhà khoa học, các doanh nghiệp.
Phát biểu tại Hội thảo, TS. Nguyễn Song Tùng - Viện trưởng Viện Địa lí nhân văn cho biết, xã hội hoá BVMT là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là việc huy động tất cả các nguồn lực từ các thành phần kinh tế ngoài thành phần kinh tế quốc doanh, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và cộng đồng tham gia vào hoạt động BVMT vì mục tiêu phát triển bền vững.
Từ năm 1993, khi thông qua Luật BVMT, Quốc hội đã đặt vấn đề phải xã hội hóa công tác BVMT. Cụ thể, Luật đã xác định một trong những nguyên tắc BVMT là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (khoản 2, Điều 4); Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động BVMT (khoản 1, Điều 5). Điều 116 của Luật quy định Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp để thực hiện các hoạt động dịch vụ giữ gìn vệ sinh, BVMT thông qua hình thức đấu thầu trong các lĩnh vực xác định về thu gom, tái chế, xử lý chất thải… Chủ trương, chính sách xã hội hóa hoạt động BVMT đúng đắn trên đây được tiếp tục ghi nhận trong Luật BVMT năm 2014 cũng như trong Luật BVMT sửa đổi (năm 2020). Như vậy, cùng với vai trò của Nhà nước, xã hội hóa công tác BVMT đã được khẳng định rõ ràng trong chính sách về môi trường ở nước ta hiện nay.
Toàn cảnh hội thảo
Đối với lĩnh vực quản lý chất thải, xã hội hoá trong thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải thường được hiểu là sự thu hút, huy động sự tham gia của các cộng đồng trong xã hội vào các hoạt động thu gom và quản lý chất thải. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 7/5/2018 về phê duyệt điều chỉnh Chiến lược Quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh xây dựng các mô hình xã hội hóa trong công tác thu gom, vận chuyển, lưu giữ và xử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) nông thôn; từng bước triển khai có hiệu quả chương trình phân loại CTRSH tại nguồn; ưu tiên xây dựng các cơ sở tái chế, xử lý CTRSH tập trung vùng tỉnh, vùng liên tỉnh phù hợp với quy hoạch quản lý chất thải rắn và bảo đảm quản lý vận hành ổn định, hiệu quả.
Trong thời gian qua, vấn đề về chất thải rắn nói chung, trong đó có CTRSH nông thôn là vấn đề bức xúc của nhiều địa phương trong cả nước. Theo báo cáo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, phần lớn dân số Việt Nam vẫn tập trung sống và sản xuất ở khu vực nông thôn với khoảng 63,09 triệu người, chiếm 65,6% dân số cả nước. Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia năm 2019 của Bộ TN&MT, tổng lượng CTRSH phát sinh trong cả nước đến năm 2019 là 65.658 tấn/ngày (trong đó khu vực đô thị là 35,625 tấn/ngày và khu vực nông thôn là 28.392 tấn/ngày tương đương với 10,4 triệu tấn/năm). Hầu hết CTRSH không được phân loại tại nguồn, vì vậy tỷ lệ thu hồi chất thải có khả năng tái chế và tái sử dụng như giấy vụn, kim loại, nhựa,... còn thấp và chủ yếu tự phát.
Xã hội hóa quản lý CTRSH nông thôn đã và đang được triển khai ở nhiều địa phương nhưng hoạt động chưa hiệu quả và không bền vững do những hạn chế về cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa. Việc huy động các nguồn lực tham gia công tác xã hội hóa quản lý chất thải rắn nông thôn còn khó khăn. Trong khi ở khu vực đô thị, các Công ty dịch vụ môi trường đô thị là các doanh nghiệp công ích Nhà nước, 80% kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước, 20% do dân đóng góp thì các tổ chức dịch vụ môi trường ở nông thôn kinh phí hoạt động chủ yếu từ nguồn thu phí dịch vụ môi trường do người dân đóng góp- chỉ đủ để trả thù lao cho người thu gom rác với mức chỉ bằng 30-40% thu nhập của người thu gom rác ở đô thị. Người thu gom chưa được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhiều nơi chưa có bảo hộ lao động.
Bên cạnh đó, các tổ chức dịch vụ môi trường nông thôn chưa đủ năng lực để giải quyết trọn vẹn các vấn đề quản lý chất thải: Hầu hết các tổ chức xã hội ở nông thôn mới chỉ thực hiện được các nội dung về tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng, tổ chức thu gom chất thải mà chưa có các biện pháp xử lý dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải ngày càng gia tăng; chưa có chính sách để thu hút các nhà đầu tư thuộc khu vực ngoài nhà nước tham gia; chưa tạo được cho người dân ý thức, thói quen BVMT,...
Các đại biểu tham gia Hội thảo đã tập trung thảo luận, chia sẻ về các vấn đề xã hội hóa quản lý CTRSH; đề xuất các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu ban hành phương pháp, quy trình xác định quản lý chi phí dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt để các địa phương xây dựng, điều chỉnh đơn giá nhanh chóng, thuận tiện; quy định cụ thể về mức thu, tỷ lệ hỗ trợ, bù đắp từ ngân sách địa phương thống nhất trên cả nước với từng loại đô thị. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần có chế tài với những đối tượng không phân loại rác tại nguồn, không nộp tiền dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Trong cơ cấu giá chi phí dịch vụ cần có tỷ lệ phần trăm thích hợp để bồi dưỡng cho lực lượng trực tiếp thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Đồng thời, các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm lao động nặng nhọc cho công nhân.
Phương Chi